Anattā in Anattalakkhaṇa Sutta – No Soul or an Ātma / Anattā trong Anattalakkhaṇa Sutta – không có linh hồn hay Ātma

May 31, 2019; revised August 25, 2022

Ngày 31/5/2019; chỉnh sửa ngày 25/8/2022

  1. Attā is a Pāli word with two primary meanings that vary and depend on the context.

Attā là một từ trong tiếng Pāli có hai nghĩa chính tùy theo ngữ cảnh.

  • In the conventional sense, attā means “a person,” like calling someone “John.” In rural Sri Lanka, to refer to someone, one could say “this attā” (මේ ඇත්තා or මේ අත්තා) just like we say “this person.”

Theo nghĩa thông thường, attā có nghĩa là “một người,” giống như gọi ai đó là “John.” Ở vùng nông thôn Sri Lanka, để chỉ một người nào đó, người ta có thể nói “attā này” (මේ ඇත්තා hoặc මේ අත්තා), tương tự như cách ta nói “người này.”

  • The deeper meaning of atta is “full control” and “with substance.”

Theo nghĩa sâu xa hơn, atta có nghĩa là “sự làm chủ hoàn toàn” và “có thực chất.”

  • If one is in complete control of SOMETHING, that THING can be called their attā. If something is not under full control, that is anattā.

Nếu ai đó hoàn toàn làm chủ được MỘT VẬT GÌ ĐÓ, thì vật đó có thể được gọi là attā của người ấy. Nếu không thể hoàn toàn làm chủ được, thì đó là anattā.

  • That is related to the fundamental concepts of “anattā” and “anatta” (one of the three characteristics of Nature or Tilakkhaṇa); see “Anicca, Dukkha, Anatta.” “Anatta” is having “no control” and “without substance” or “without essence.”

Điều đó liên quan đến các khái niệm nền tảng “anattā” và “anatta” (một trong ba đặc tính của Tự nhiên hay Tilakkhaṇa); xem “Anicca, Dukkha, Anatta.” “Anatta” có nghĩa là “không có quyền kiểm soát” và “không có thực chất” hay “không có bản thể.”

  1. Therefore, we need to determine the meaning of “attā” based on the context where the word is used.

Do đó, chúng ta cần xác định ý nghĩa của “attā” dựa trên ngữ cảnh mà từ này được sử dụng.

  • For example, “bear” refers to the large animal in “I saw a bear,” but in “to bear a burden,” it has an entirely different meaning.

Ví dụ, từ “bear” có nghĩa là một loài động vật lớn trong câu “Tôi đã thấy một con gấu,” nhưng trong “mang một gánh nặng,” nó mang ý nghĩa hoàn toàn khác.

  • Let us clarify those two meanings of attā directly using the Tipiṭaka.

Hãy làm rõ hai nghĩa này của attā trực tiếp bằng cách sử dụng Tipiṭaka.

  1. The usage of “attā” in the ordinary sense is seen in the famous Dhammapada verse; see, “Attā Hi Attano Nātho.” There, “attā” refers to “any person.” It just says that each person has strived for their salvation (Nibbāna). Even the Buddha can only teach the way.

Cách sử dụng “attā” theo nghĩa thông thường được thấy trong bài kệ nổi tiếng của Dhammapada; xem “Attā Hi Attano Nātho.” Ở đó, “attā” chỉ “bất kỳ người nào.” Nó chỉ nói rằng mỗi người phải tự nỗ lực để đạt được sự giải thoát (Nibbāna). Ngay cả Đức Phật cũng chỉ có thể chỉ đường.

  • Another is “attānaṁ damayanti paṇḍitā,” which means, “a wise person would control/discipline oneself.” That is in Dhammapada verse 80. [udakaṁ hi nayanti nettikā; usukārā namayanti tejanaṁ; dāruṁ namayanti tacchakā; attānaṁ damayanti paṇḍitā.]

Một ví dụ khác là câu “attānaṁ damayanti paṇḍitā,” có nghĩa là “người trí khắc phục/tự chế ngự chính mình.” Câu này nằm trong Dhammapada kệ số 80: [udakaṁ hi nayanti nettikā; usukārā namayanti tejanaṁ; dāruṁ namayanti tacchakā; attānaṁ damayanti paṇḍitā.]

  1. Buddha described the second and deeper meaning of “attā” in his second discourse delivered after attaining Buddhahood.

Đức Phật đã giảng giải ý nghĩa thứ hai, sâu sắc hơn của “attā” trong bài kinh thứ hai Ngài thuyết sau khi đạt Quả vị Phật.

WebLink: suttacentral: Anattalakkhana Sutta (SN 22.59)” starts with the verse:
Rūpaṁ, bhikkhave, anattā. Rūpañca hidaṁ, bhikkhave, attā abhavissa, nayidaṁ rūpaṁ ābādhāya saṁvatteyya, labbhetha ca rūpe: ‘evaṁ me rūpaṁ hotu, evaṁ me rūpaṁ mā ahosī’ti. Yasmā ca kho, bhikkhave, rūpaṁ anattā, tasmā rūpaṁ ābādhāya saṁvattati, na ca labbhati rūpe: ‘evaṁ me rūpaṁ hotu, evaṁ me rūpaṁ mā ahosī’ti.”

WebLink: suttacentral: Anattalakkhana Sutta (SN 22.59)” mở đầu bằng câu kệ:
“Rūpaṁ, bhikkhave, anattā. Rūpañca hidaṁ, bhikkhave, attā abhavissa, nayidaṁ rūpaṁ ābādhāya saṁvatteyya, labbhetha ca rūpe: ‘evaṁ me rūpaṁ hotu, evaṁ me rūpaṁ mā ahosī’ti. Yasmā ca kho, bhikkhave, rūpaṁ anattā, tasmā rūpaṁ ābādhāya saṁvattati, na ca labbhati rūpe: ‘evaṁ me rūpaṁ hotu, evaṁ me rūpaṁ mā ahosī’ti.”

  • Translated: “Bhikkhus, form (physical body) is anattā (or not attā). For if, bhikkhus, if one’s body is attā, one would have full control over it, and it would be possible to say: ‘Let my body be like this; let my body not be like this.’ But because the body is anattā, it is subjected to decay and disease, and it is impossible to have it the way one desires: ‘Let my body be this way; let my body not be this way.’”

Dịch: “Này các Bhikkhu, sắc thân (thân vật lý) là anattā (không phải attā). Vì, này các Bhikkhu, nếu thân của một người là attā, người ấy sẽ có toàn quyền kiểm soát nó, và có thể nói: ‘Để thân ta như thế này; đừng để thân ta như thế kia.’ Nhưng bởi vì thân là anattā, nên nó chịu sự già yếu và bệnh tật, và không thể có được theo ý muốn: ‘Để thân ta như thế này; đừng để thân ta như thế kia.’”

  1. The verse in #4 is critical because it clearly describes what is meant by attā and anattā in the more profound sense: Attā would be one in complete control. If one has full control of something, one would be able to maintain it the way one wants.

Đoạn kệ ở mục #4 là then chốt vì nó mô tả rõ ràng ý nghĩa sâu xa của attā và anattā: Attā là trạng thái hoàn toàn làm chủ. Nếu ai đó có toàn quyền kiểm soát một vật, họ sẽ có thể duy trì nó theo ý muốn.

  • For example, we like to think that if we “own” something, we should be able to “have full control” over it. But we know that is not the case (cars, houses, anything we own evolves in their way. Even though things like gold jewelry are stable, we will lose control over them when we die).

Ví dụ, chúng ta thường nghĩ rằng nếu “sở hữu” một vật gì đó, chúng ta sẽ “hoàn toàn kiểm soát” được nó. Nhưng thực tế không phải vậy (xe cộ, nhà cửa, hay bất cứ thứ gì ta sở hữu đều biến đổi theo cách riêng của chúng. Ngay cả những thứ bền vững như vàng bạc trang sức cũng sẽ ngoài tầm kiểm soát khi ta chết).

  • Specifically, if one’s body is attā, one should be able to make it the way one would like it to be: say, strong, healthy, and handsome/beautiful; one would be able to maintain it without catching any disease or injuries; furthermore, one would be able to make it live forever. But our bodies evolve in their way. No matter how hard we try, they age, decay, and die.

Cụ thể, nếu thân thể là attā, người ta phải có khả năng làm cho nó theo ý mình: khỏe mạnh, xinh đẹp, không bệnh tật hay bị thương, và có thể sống mãi mãi. Nhưng cơ thể chúng ta vận hành theo cách riêng của nó. Dù cố gắng thế nào, nó vẫn lão hóa, suy tàn và chết.

  1. This is emphasized in another verse in that sutta: “Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave, rūpaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti? “Aniccaṁ, bhante.” “Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti? “Dukkhaṁ, bhante.”

Điều này được nhấn mạnh thêm trong một đoạn khác của sutta đó: “Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave, rūpaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti? “Aniccaṁ, bhante.” “Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti? “Dukkhaṁ, bhante.”

Translated: “What do you think, bhikkhus, can one’s body be maintained to one’s liking or not?”—“not possible, bhante.”—“Does that lead to suffering or happiness?”—“Suffering, bhante.”

Dịch: “Này các bhikkhu, các ông nghĩ sao, thân này có thể được duy trì theo ý muốn hay không?” — “Không thể, bạch Thế Tôn.” — “Điều đó dẫn đến khổ đau hay hạnh phúc?” — “Khổ đau, bạch Thế Tôn.”

  • As we have seen before, the anicca nature (inability to satisfy one’s desires/expectations) leads to suffering; see, “Anicca – Inability to Keep What We Like.”

Như chúng ta đã thấy trước đây, bản chất anicca (sự bất khả trong việc thỏa mãn mong muốn và kỳ vọng của mình) dẫn đến khổ đau; xem “Anicca – Inability to Keep What We Like.”

  • We suffer when something we own breaks down (houses, cars, etc) and when people we love get sick or die. However, the worst suffering is when we get ill or face death. That is expressed in the next part of the above verse.

Chúng ta khổ khi những thứ mình sở hữu bị hư hại (nhà cửa, xe cộ, v.v.) hoặc khi người thân bị bệnh hay qua đời. Tuy nhiên, nỗi khổ lớn nhất là khi chính ta bị bệnh hoặc đối diện cái chết. Điều này được thể hiện trong phần tiếp theo của đoạn kệ trên.

  1. The verse continues: “Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti”? “No hetaṁ, bhante.”

Đoạn kệ tiếp tục: “Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti”? “No hetaṁ, bhante.”

Translated: “If something cannot be maintained to one’s liking, if it undergoes unexpected change, and lead to suffering, is it appropriate to say: ‘This is mine, this I am, this is my attā (my essence)’?”—“No, bhante.”

Dịch: “Nếu một vật không thể được duy trì theo ý muốn, nếu nó thay đổi bất ngờ và dẫn đến khổ đau, thì có thích hợp để nói rằng: ‘Cái này là của tôi, đây là tôi, đây là attā (bản thể) của tôi’ không?” — “Không, bạch Thế Tôn.”

  • Now we are getting to the deeper aspect. If X owns a car, X would say, “this car is mine.” If that car breaks down, X will become unhappy (suffer).

Bây giờ chúng ta đi vào khía cạnh sâu hơn. Nếu X sở hữu một chiếc xe, X sẽ nói: “chiếc xe này là của tôi.” Nếu xe bị hỏng, X sẽ buồn (khổ).

  • However, X will never say, “this car is me; this is my attā (my essence).”

Tuy nhiên, X sẽ không bao giờ nói: “chiếc xe này là tôi; đây là attā (bản thể) của tôi.”

  • On the other hand, X is likely to say, “this body is me; this is my attā (my essence).”

Ngược lại, X có khả năng sẽ nói: “thân này là tôi; đây là attā (bản thể) của tôi.”

  1. Then, the Buddha pointed out that the statement also holds for one’s physical body. One’s body cannot be maintained to one’s liking; it undergoes unexpected change and leads to suffering. Thus, it is NOT appropriate to say: “This (body) is mine, this I am, this is my attā (my essence).”

Sau đó, Đức Phật chỉ ra rằng lời dạy này cũng áp dụng cho chính thân thể của một người. Thân thể không thể được duy trì theo ý muốn; nó thay đổi bất ngờ và dẫn đến khổ đau. Vì vậy, KHÔNG thích hợp để nói rằng: “Thân này là của tôi, đây là tôi, đây là attā (bản thể) của tôi.”

  • Understanding that will remove sakkāya diṭṭhi.

Hiểu được điều đó sẽ đoạn trừ sakkāya diṭṭhi.

  1. Furthermore, it is not only our body but any rūpa (family, friends, cars, houses, etc) that is not under our control. In our deep past, we never had that control over any external or internal rūpa, and we will never be able to have such control in the future either. Therefore, the whole rūpakkhandha is anattā.

Hơn nữa, không chỉ thân thể chúng ta mà bất kỳ rūpa nào (gia đình, bạn bè, xe cộ, nhà cửa, v.v.) cũng không nằm trong quyền kiểm soát của ta. Trong quá khứ vô tận, ta chưa bao giờ kiểm soát được bất kỳ rūpa nào, cả bên ngoài lẫn bên trong, và trong tương lai cũng sẽ không bao giờ có thể. Do đó, toàn bộ rūpakkhandha là anattā.

  • The sutta now repeats the same argument for the other four khandhās or aggregates: vedanākkhandha, saññākkhandha, saṅkhārakkhandha, viññāṇakkhandha.

Sutta sau đó lặp lại lập luận tương tự cho bốn uẩn còn lại: vedanākkhandha, saññākkhandha, saṅkhārakkhandha, viññāṇakkhandha.

  • Those are our thoughts, experiences, hopes and dreams. We do not have much control over them, and whatever control we have will be lost at death. We have no idea where we will be born next.

Đó là các ý nghĩ, cảm xúc, hy vọng và ước mơ của chúng ta. Ta hầu như không kiểm soát được chúng, và phần kiểm soát ít ỏi ấy cũng mất đi khi chết. Ta hoàn toàn không biết mình sẽ tái sinh ở đâu.

  • We are helpless in this beginning-less rebirth process, which is the anatta

Chúng ta hoàn toàn bất lực trong chuỗi luân hồi vô thủy này, đó chính là bản chất anatta.

  1. Anything related to a “living being” (or a given lifestream) is in the five aggregates. There is not even a single entity we have control over, i.e., none of them can be called one’s attā.

Mọi thứ liên quan đến một “chúng sinh” (hay một dòng sinh mệnh nhất định) đều nằm trong năm uẩn. Không có một thực thể nào mà ta có thể làm chủ; nghĩa là, không có gì có thể được gọi là attā của ta.

  • Therefore, there is NOTHING that can be called one’s own and thus can be maintained to one’s liking. For example, one has no control over WHERE one will be reborn.

Do đó, KHÔNG CÓ GÌ có thể được gọi là của ta và được duy trì theo ý ta. Ví dụ, ta không thể kiểm soát được NƠI mình sẽ tái sinh.

  • Anything in the five aggregates arises via Paṭicca Samuppāda. We only have control over two types of saṅkhāra (vacī and kāya saṅkhāra) and have no control over mano saṅkhāra. It is essential to understand the types of saṅkhāra: “Saṅkhāra – What It Really Means.”

Mọi thứ trong năm uẩn đều sinh khởi theo Paṭicca Samuppāda. Ta chỉ có thể kiểm soát hai loại saṅkhāra (vacī và kāya saṅkhāra), còn mano saṅkhāra thì không thể. Rất cần hiểu rõ các loại saṅkhāra: “Saṅkhāra – What It Really Means.”

  • Furthermore, most rebirths are the lower realms with much suffering. Thus one is helpless or anattā.

Hơn nữa, hầu hết các lần tái sinh đều ở những cõi thấp, nơi có nhiều khổ đau. Vì vậy, chúng ta bất lực hay anattā.

  1. Thus, there is “no real intrinsic essence” like a soul. Also, “one is helpless in the long run” and “all struggles for permanent happiness will go to naught,” etc. Even if one lives a perfect and healthy life, one WILL become helpless at death, with the future uncertain.

Như vậy, không có “bản thể nội tại” thật sự nào giống như một linh hồn. Hơn nữa, “con người bất lực trong dài hạn,” và “mọi nỗ lực tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu đều trở nên vô ích.” Dù sống hoàn hảo và khỏe mạnh đến đâu, ta vẫn SẼ bất lực khi cái chết đến, với tương lai không chắc chắn.

  • Note that “rūpaṁ anattā” refers to the fact that one’s body cannot be one’s attā, and also, anatta (without the long “a”) is a characteristic of nature.

Lưu ý rằng “rūpaṁ anattā” ám chỉ rằng thân thể không thể là attā của ta, và anatta (không có âm “ā” dài) là một đặc tính của tự nhiên.

  • Realizing this particular aspect of anatta nature, i.e., that any part of one’s five aggregates can not be taken as “one’s own, is the removal of sakkāya diṭṭhi. We get attached to small parts of pañcakkhandha (i.e., pañcupādānakkhandha) because we think those are our own. See “Essence of Buddhism – In the First Sutta.”

Nhận ra khía cạnh cụ thể này của bản chất anatta, tức là bất kỳ phần nào trong năm uẩn đều không thể được xem là “của ta,” chính là đoạn trừ sakkāya diṭṭhi. Chúng ta bám chấp vào các phần nhỏ của pañcakkhandha (tức pañcupādānakkhandha) vì tưởng rằng đó là “của mình.” Xem “Essence of Buddhism – In the First Sutta.”

  1. Now, we can see how this concept of anattā is opposite to the concept of a “soul” in Abrahamic religions or the concept of an “ātma” (pronounced “āthma”) in Hinduism. Thus, according to those religions, there is an attā, the “soul” or the “ātma.”

Giờ đây, ta có thể thấy rằng khái niệm anattā đối lập hoàn toàn với khái niệm “linh hồn” trong các tôn giáo Abraham hoặc “ātma” (phát âm là “āthma”) trong Ấn Độ giáo. Theo các tôn giáo ấy, có một attā, tức “linh hồn” hay “ātma.”

  • In the case of Abrahamic religions, one’s goal is to “purify” one’s soul and make it go to heaven where one will live forever.

Trong các tôn giáo Abraham, mục tiêu của con người là “thanh tẩy linh hồn” để linh hồn ấy được lên thiên đàng và sống đời đời.

  • In the case of Hinduism, the goal is to merge one’s ātma with the Mahā Brahma, and again be in that Brahma realm forever.

Trong trường hợp của Ấn Độ giáo, mục tiêu là hợp nhất ātma của một người với Mahā Brahma và được tồn tại mãi trong cõi Brahma ấy.

  • However, the Buddha stated that no realm in this world has a permanent existence like that.

Tuy nhiên, Đức Phật dạy rằng không có cõi nào trong thế giới này có sự tồn tại vĩnh hằng như thế.

  • This concept of an “everlasting identity” or a “soul” or an “ātma” is referred to as the sassatavāda in the Tipiṭaka. [sassatavāda : [m.] eternalism.]

Khái niệm về một “bản thể vĩnh cửu,” hay “linh hồn,” hay “ātma” này được gọi là sassatavāda trong Tipiṭaka. [sassatavāda: [danh từ giống đực] thuyết thường còn.]

  1. Those who do not believe in rebirth say that a “person” exists only as long as his/her body is alive. When one dies, that identity is terminated. Most scientists today seem to believe in this idea: There is nothing that is “carried over” to the next life. This concept (or argument) is called the uccedavāda in the Tipiṭaka. [uccheda : [m.] cutting off; perishing; annihilation.]

Những người không tin vào sự tái sinh cho rằng “một con người” chỉ tồn tại chừng nào thân xác của họ còn sống. Khi chết đi, bản ngã ấy chấm dứt. Hầu hết các nhà khoa học ngày nay dường như tin vào quan điểm này: Rằng không có gì được “chuyển tiếp” sang đời sau. Quan điểm này được gọi là uccedavāda trong Tipiṭaka. [uccheda: [danh từ giống đực] sự cắt đứt; diệt mất; hủy diệt.]

  • But the Buddha explained that the fundamental nature lies between those two extreme views. Any “living being” exists as an ever-changing lifestream and that “lifestream” is carried over to a new life. But there is NOTHING that remains the SAME in that lifestream. The next life could be VERY DIFFERENT from the current life; see, “What Reincarnates? – Concept of a Lifestream.”

Nhưng Đức Phật giảng rằng bản chất thực sự nằm giữa hai cực đoan đó. Mọi “chúng sinh” tồn tại như một dòng sinh mệnh luôn biến đổi, và “dòng sinh mệnh” ấy được tiếp nối qua kiếp sau. Tuy nhiên, KHÔNG CÓ GÌ trong dòng đó vẫn GIỮ NGUYÊN như cũ. Đời sau có thể RẤT KHÁC với đời hiện tại; xem “What Reincarnates? – Concept of a Lifestream.”

  • The next life is determined by the root causes and conditions when leaving the current existence (cuti-paṭisandhi moment) based on Paṭicca Samuppāda.

Kiếp sống kế tiếp được quyết định bởi các nhân và duyên gốc rễ khi rời bỏ đời sống hiện tại (sát-na cuti-paṭisandhi), dựa trên Paṭicca Samuppāda.

A second fundamental meaning of anatta is in “Anatta – No Refuge in This World.”

Nghĩa căn bản thứ hai của anatta được trình bày trong “Anatta – No Refuge in This World.”