Saṃsāric Time Scale, Buddhist Cosmology, and the Big Bang Theory / Thang thời gian Saṃsāra, vũ trụ luận Phật giáo và thuyết Vụ Nổ Lớn

Revised May 22, 2018; May 25, 2022; October 3, 2023 (added #5, #6, #7)

Sửa ngày 22/05/2018; 25/05/2022; 03/10/2023 (bổ sung #5, #6, #7)

  1. To understand the Buddha’s message, one needs to grasp the unimaginable length of the saṁsāra (the rebirth process). The Buddha said that there is no discernible beginning to conscious life. It always existed, and it will exist until one attains Nibbāna.

Để hiểu thông điệp của Đức Phật, cần nắm được độ dài không thể tưởng tượng của saṁsāra (tiến trình tái sinh). Đức Phật dạy rằng không có khởi điểm có thể biết cho sự sống có ý thức. Nó đã luôn hiện hữu, và sẽ còn hiện hữu cho đến khi ai đó chứng Nibbāna.

  • Infinity is a mind-boggling concept; see “The Infinity Problem in Buddhism.”

Vô hạn là một khái niệm khiến trí óc choáng ngợp; xem “The Infinity Problem in Buddhism.”

  1. This is a bit difficult concept for many because many cultures/religions have the idea of a set time of Creation. If there is a First Cause (such as Creation), then there must be a time that everything got started. But if there is no Creation, then there cannot be a set time for a beginning.

Điều này hơi khó với nhiều người, vì nhiều nền văn hóa/tôn giáo chủ trương có một thời điểm Tạo dựng cố định. Nếu có “Nguyên nhân Đầu tiên” (như Sự sáng chế), ắt phải có lúc vạn vật khởi đầu. Nhưng nếu không có Sự sáng chế, thì không thể có một thời điểm khởi đầu cố định.

  • Even as recently as at the beginning of the 1900s, Lord Kelvin, one of the top scientists of the day, estimated that the age of the Sun was < 40 million years based on gravitational contraction (scientists did not know the atomic structure at that time). Our knowledge of the universe was pretty much limited to the Solar system.

Ngay đầu thế kỷ 20, Lord Kelvin, một nhà khoa học hàng đầu, ước tính tuổi Mặt Trời < 40 triệu năm dựa trên sự co do trọng lực (khi đó giới khoa học chưa biết cấu trúc nguyên tử). Hiểu biết về vũ trụ của chúng ta hầu như chỉ gói trong Hệ Mặt Trời.

  1. Vindication of the Buddha’s teachings on the long saṁsāra started at the beginning of the 1900s with the advent of quantum mechanics and relativity.

Sự xác chứng cho lời dạy của Đức Phật về saṁsāra dài vô hạn khởi sự từ đầu thế kỷ 20 với sự ra đời của cơ học lượng tử và thuyết tương đối.

  • The discovery of radioactivity in 1898 by Becquerel and Einstein’s explanation of the photoelectric effect in 1905 led to the quantum theory of atomic structure. That, in turn, led to the correct picture of nuclear fusion as the source of solar energy.

Phát hiện phóng xạ năm 1898 của Becquerel và lời giải thích hiệu ứng quang điện năm 1905 của Einstein dẫn đến lý thuyết lượng tử về cấu trúc nguyên tử; từ đó mới có bức tranh đúng về nhiệt hạch là nguồn năng lượng của Mặt Trời.

  • By 1956, scientists knew the age of the solar system to be > 4 billion years. Yet, even billions of years are hardly the same as “beginning-less time!”

Đến 1956, khoa học biết tuổi của Hệ Mặt Trời > 4 tỷ năm. Dẫu vậy, hàng tỷ năm vẫn chẳng thể so với “thời gian vô thủy”!

  1. But there was more to be discovered. By 1929, Edwin Hubble showed that distant galaxies are moving away from each other and that our galaxy is just one of many galaxies. That was a vast understatement since now we know billions of galaxies exist in our observable universe! And they are flying away from each other, meaning the universe is expanding.

Nhưng còn nhiều điều hơn thế. Năm 1929, Edwin Hubble cho thấy các thiên hà xa đang tách xa nhau và Ngân Hà của chúng ta chỉ là một trong vô số thiên hà. Đó là một cách nói giảm rất lớn, vì nay ta biết trong vũ trụ quan sát được có hàng tỷ thiên hà! Chúng đang bay xa nhau, tức vũ trụ đang giãn nở.

  • The discovery of microwave background radiation in the 1960s led to the “Big Bang Theory” that our universe started with the “Big Bang” about 14 billion ago.

Việc phát hiện bức xạ nền vi ba vũ trụ vào thập niên 1960 dẫn đến Thuyết Vụ Nổ Lớn cho rằng vũ trụ khởi đầu bằng một “Vụ Nổ Lớn” khoảng 14 tỷ năm trước.

  • However, it is just a theory.

Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là một giả thuyết.

  1. The currently accepted explanation for the “big bang origin of the universe” (by scientists) is the inflationary theory of Alan Guth; see the book, “The Inflationary Universe” by Alan Guth, 1997. In the inflation theory, if one “Big Bang” is possible, then it is a given that many other “Big Bangs” are possible. The total energy of our universe is entirely consistent with adding up to zero.

Lý giải hiện được nhiều nhà khoa học chấp nhận về nguồn gốc Vụ Nổ Lớn là thuyết lạm phát của Alan Guth; xem sách “The Inflationary Universe” (1997). Theo thuyết lạm phát, nếu một “Vụ Nổ Lớn” có khả năng xảy ra thì mặc nhiên nhiều “Vụ Nổ Lớn” khác cũng có khả năng xảy ra. Tổng năng lượng của vũ trụ chúng ta hoàn toàn có thể “cộng lại bằng không”.

  • If a universe requires zero energy to produce, then “the universe is the ultimate free lunch,” as Guth explains in his book (pp. 247-248). Thus, implied in the inflation theory is the existence of multiple universes.

Nếu một vũ trụ cần năng lượng bằng không để hình thành, thì “vũ trụ là bữa trưa miễn phí tối hậu”, như Guth giải thích (tr. 247–248). Hệ quả: thuyết lạm phát hàm ý có đa vũ trụ.

  • However, there are some contradictions to the “Big Bang Theory” emerging in 2023.

Tuy vậy, từ năm 2023 đã xuất hiện vài mâu thuẫn đối với Thuyết Vụ Nổ Lớn.

  • According to the “cyclic theory” model, an alternate theory, the same universe comes to a “Big Crunch,” which leads to another Big Bang, and the whole process keeps repeating. So, there is no beginning to time either; time is infinite.

Theo mô hình “thuyết chu kỳ”, một giả thuyết khác, chính vũ trụ này đi tới “Đại Co Lại” rồi dẫn tới một Vụ Nổ Lớn mới, và toàn bộ chu trình lặp lại. Như thế thời gian cũng không có khởi đầu; thời gian là vô hạn.

  1. There are several theories currently being explored in quantum mechanics related to cosmology. One theory requires a universe to exist for each possible event! So, there may be an infinite number of parallel universes. For example, see “The Beginning of Infinity” by David Deutsch (2011). In all these theories, multiple universes always exist.

Hiện có nhiều giả thuyết trong cơ học lượng tử liên hệ vũ trụ học đang được khảo cứu. Có giả thuyết đòi hỏi một vũ trụ tồn tại cho mỗi sự kiện có thể có! Như vậy có thể có vô hạn vũ trụ song song. Xem, chẳng hạn, “The Beginning of Infinity” của David Deutsch (2011). Trong tất cả các giả thuyết này, đa vũ trụ luôn hiện hữu.

  • If that is not enough to boggle one’s mind, another theory in quantum mechanics is called the “Many Worlds Interpretation of Quantum Mechanics.” It speculates that multiple universes arise each time a quantum event takes place!

Nếu chừng đó vẫn chưa đủ làm người ta choáng ngợp, còn có một giả thuyết trong cơ học lượng tử gọi là “Diễn giải Nhiều Thế Giới của Cơ học Lượng tử”. Giả thuyết này suy đoán rằng mỗi khi một sự kiện lượng tử xảy ra thì lại phát sinh nhiều vũ trụ!

  • All the above are mere speculations as of now.

Tất cả những điều trên hiện mới chỉ là các suy đoán.

  1. Buddha explains how the universe operates in the Aggañña Sutta (DN 27). However, all English translations available today are not correct. A good translation of the sutta with details would need a good background in Buddha Dhamma.

Đức Phật giải thích cách vũ trụ vận hành trong Aggañña Sutta (DN 27). Tuy nhiên, các bản dịch tiếng Anh hiện có đều không chính xác. Một bản dịch tốt, chi tiết về sutta này cần có nền tảng vững chắc về Dhamma của Đức Phật.

  • I wrote an introduction to Aggañña Sutta in “Buddhism and Evolution – Aggañña Sutta (DN 27)”.

Tôi đã viết phần dẫn nhập cho Aggañña Sutta trong “Buddhism and Evolution – Aggañña Sutta (DN 27)”.

  • Also see, “Infinity – How Big Is It?”.

Cũng xem “Infinity – How Big Is It?”.

  1. I would like to close this essay with a simile from the Buddha that he used to describe the unimaginable length of saṁsāra, and to point out that our time in this life is less than a blink of an eye to the length of saṁsāra. The Buddha used a great eon as the measurement unit to help his followers visualize the enormous length of saṁsāra.

Tôi muốn kết bài viết bằng một ví dụ của Đức Phật dùng để mô tả độ dài không thể tưởng tượng của saṁsāra, và để chỉ ra rằng khoảng thời gian đời này của ta còn ngắn hơn một cái chớp mắt so với chiều dài của saṁsāra. Đức Phật dùng “đại kiếp” làm đơn vị đo để giúp đệ tử hình dung độ dài khổng lồ của saṁsāra.

  • In Buddha Dhamma, the Earth goes through a cyclic process: it forms, stays in that state, starts being destroyed, and stays in that destroyed state. That whole process takes a great eon (mahā kappa), and then the entire process repeats, again and again.

Trong Dhamma của Đức Phật, Trái Đất trải qua một chu trình: hình thành, tồn tại, bắt đầu bị hủy hoại, rồi tồn tại trong trạng thái bị hủy hoại. Toàn bộ tiến trình ấy kéo dài một đại kiếp (mahā kappa), rồi lại lặp đi lặp lại.

  • The Buddha gave a simile to describe the length of a great eon (mahā kappa). It is longer than the time it would take a man to wear away a mountain of solid granite one yojanā (about 7 miles) around and one yojanā high by stroking it once every hundred years with a silk cloth.

Đức Phật nêu một ví dụ để mô tả độ dài của một đại kiếp (mahā kappa). Nó còn dài hơn thời gian một người cần để mài mòn một ngọn núi đá hoa cương rắn chắc, chu vi một yojanā (khoảng 7 dặm) và cao một yojanā, bằng cách cứ mỗi một trăm năm lại vuốt nó một lần bằng khăn lụa.

  • These days, scientists use the word “eon” to denote the duration of a universe (from the “big bang” either to a “big crunch” or just fading away). That will be proven to be incorrect in the future. I hope I will live to that day!

Ngày nay, các nhà khoa học dùng từ “eon (thời đại địa chất)” để chỉ khoảng tồn tại của một vũ trụ (từ “vụ nổ lớn” cho đến “đại co lại” hoặc dần tàn lụi). Điều đó sẽ được chứng minh là không đúng trong tương lai. Tôi hy vọng sẽ còn sống đến ngày ấy!

  1. For fun, I estimated the mass of the material that needs to be removed by the silk cloth each time (this happens every 100 years). Using a 7-mile cube of stone with a density of 2515 kg per cubic meter, I calculate the mass of the mountain to be 3.5 × 106

Để cho vui, tôi ước tính khối lượng vật chất bị khăn lụa lấy đi mỗi lần (mỗi 100 năm). Dùng một khối đá hình lập phương cạnh 7 dặm, với khối lượng riêng 2.515 kg/m³, tôi tính khối lượng ngọn núi là 3,5 × 106 kg.

  • Assuming our Solar system’s lifetime is 10 billion years, I calculate the mass removed by each stroke is about 36 grams or about 1.2 ounces. That appears to be a reasonable number!

Giả sử tuổi thọ của Hệ Mặt Trời là 10 tỷ năm, tôi tính khối lượng bị lấy đi mỗi lần vuốt khoảng 36 gram, tức chừng 1,2 ounce. Có vẻ là con số hợp lý!

  • When we try to visualize the wearing of a mountain, we can imagine how long a time period that is.

Khi cố hình dung chuyện mài mòn cả một ngọn núi, ta có thể tưởng tượng quãng thời gian ấy dài đến mức nào.

  1. Yet, that is still nothing compared to the length of the saṁsāra. Infinity is a concept that is hard to wrap one’s mind around; see, “Infinity – How Big Is It?”.

Thế nhưng, chừng đó vẫn chẳng là gì so với chiều dài của saṁsāra. Vô hạn là khái niệm rất khó thấu triệt; xem “Infinity – How Big Is It?”.

  • One day the bhikkhus asked the Buddha how many great eons had already passed and gone by. The Buddha told them, “Suppose, bhikkhus, there were four disciples here, each with a lifespan of hundred years, and each day they were each to recollect a hundred thousand great eons. There would still be great eons not yet recollected by them when those four disciples pass away at the end of a hundred years. Because, bhikkhus, this saṁsāra is without discoverable beginning.”

Một hôm, các bhikkhu thưa hỏi Đức Phật có bao nhiêu đại kiếp đã trôi qua. Đức Phật dạy: “Này các bhikkhu, giả sử có bốn đệ tử ở đây, mỗi người sống trăm năm, và mỗi ngày mỗi người nhớ lại một trăm ngàn đại kiếp. Đến cuối trăm năm, khi bốn người ấy qua đời, vẫn còn những đại kiếp chưa được nhớ đến. Vì này các bhikkhu, saṁsāra này không có khởi đầu có thể tìm thấy.”

  • Another simile given by the Buddha to indicate the length of saṁsāra is the following: Every living being has been one’s mother, father, or a close relative in this unimaginably long saṁsāra.

Một ví dụ khác Đức Phật nêu để chỉ độ dài của saṁsāra là: mỗi hữu tình đều đã từng là mẹ, cha, hoặc thân quyến của nhau trong dòng saṁsāra dài không thể tưởng tượng này.

  • One could understand why infinity is so hard to fathom by reading about what scientists say about infinity; a very entertaining book is “The Beginning of Infinity” (2011) by the physicist David Deutsch.

Người ta có thể hiểu vì sao vô hạn khó lĩnh hội bằng cách đọc những gì các nhà khoa học bàn về vô hạn; một cuốn sách rất thú vị là “The Beginning of Infinity” (2011) của nhà vật lý David Deutsch.

  • July 20, 2019: New series on “Origin of Life.”

Ngày 20/07/2019: Loạt bài mới “Origin of Life.”