Difference Between Jhāna and Stages of Nibbāna / Sự khác biệt giữa Jhāna và các tầng bậc của Nibbāna

March 24, 2017; revised April 28, 2018; July 11, 2021; August 4, 2023 (#16); April 19, 2024

Ngày 24/03/2017; chỉnh sửa ngày 28/04/2018; 11/07/2021; 04/08/2023 (#16); 19/04/2024

  1. There are many misconceptions about the relationship between jhāna and magga phala (the four stages of Nibbāna). Some view that jhāna is necessary to attain magga phala, and others believe that being able to get into jhāna means one has attained magga phala.

Có nhiều hiểu lầm về mối quan hệ giữa jhāna và magga phala (bốn tầng bậc của Nibbāna). Một số người cho rằng jhāna là điều kiện cần để đạt magga phala, trong khi số khác tin rằng chỉ cần có khả năng nhập jhāna tức là đã chứng đắc magga phala.

  • The first assumption is wrong, and the second is true if one has attained an Ariya jhāna (which can be defined as the removal of kāma rāga, not merely suppressing it.) Thus, one with an “Ariya jhāna” would be at least an Anāgāmi who has cultivated jhāna.

Giả định thứ nhất là sai, còn giả định thứ hai chỉ đúng nếu người ấy đã đạt Ariya jhāna (được định nghĩa là diệt trừ kāma rāga, chứ không chỉ đè nén nó). Do đó, người có “Ariya jhāna” ít nhất phải là một Anāgāmi đã tu tập jhāna.

  • We can resolve these issues by looking into what jhāna and magga phala

Ta có thể làm sáng tỏ những vấn đề này bằng cách xem xét ý nghĩa thật sự của jhāna và magga phala.

  1. One attains magga phala (various stages of Nibbāna) by permanently removing greed, hate, and ignorance (about the nature of this world or Tilakkhaṇa): “ragakkhayo dosakkhayo mohakkhayo—idaṁ vuccati nibbānan’ti.”

Một người đạt được magga phala (các tầng bậc của Nibbāna) bằng cách diệt trừ vĩnh viễn tham, sân và si (về bản chất của thế giới này hay Tilakkhaṇa): “ragakkhayo dosakkhayo mohakkhayo — idaṁ vuccati nibbānan’ti.”

  • This can also be stated as “one needs to remove seven anusaya” or, equivalently “10 saṁyojana” to attain Nibbāna. At the Sotāpanna stage one removes two anusaya and three saṁyojana; see, “Conditions for the Four Stages of Nibbāna.”

Điều này cũng có thể được diễn đạt rằng “một người cần diệt trừ bảy anusaya” hoặc tương đương là “mười saṁyojana” để đạt Nibbāna. Ở tầng Sotāpanna, người hành diệt trừ hai anusaya và ba saṁyojana; xem “Conditions for the Four Stages of Nibbāna.”

  • The most commonly used evaluation is that a Sotāpanna has removed the three saṁyojana of sakkāya diṭṭhi, vicikicchā, and sīlabbata parāmāsa.

Cách đánh giá phổ biến nhất là một Sotāpanna đã diệt trừ ba saṁyojana gồm sakkāya diṭṭhi, vicikicchā, và sīlabbata parāmāsa.

  • Therefore, a critical first step for attaining magga phala is to be exposed to the correct interpretations of anicca, dukkha, and anatta; see, “Anicca, Dukkha, Anatta – Wrong Interpretations.”

Vì vậy, bước đầu tiên then chốt để đạt magga phala là được tiếp xúc với cách hiểu đúng về anicca, dukkha, và anatta; xem “Anicca, Dukkha, Anatta – Wrong Interpretations.”

  • The second step is, of course, to grasp the anicca (and dukkha and anatta) saññā to some extent; see, “What is Saññā (Perception)?.”

Bước thứ hai, dĩ nhiên, là nhận thức sâu sắc về saññā của anicca (cũng như dukkha và anatta); xem “What is Saññā (Perception)?.”

  1. Jhāna (sometimes written as “dyāna”) can provide blissful bodily and mental sensations. These arise due to the “cleansing of the physical body and the nervous system” induced by “defilement-free” thoughts; see “Jhānic Experience in Detail – Sāmaññaphala Sutta (DN 2).”

Jhāna (đôi khi được viết là “dyāna”) có thể mang lại cảm thọ thân tâm an lạc. Điều này phát sinh nhờ “sự thanh lọc thân thể và hệ thần kinh” được phát sinh từ những tư tưởng “không nhiễm ô”; xem “Jhānic Experience in Detail – Sāmaññaphala Sutta (DN 2).”

  • Jhāna are mental states corresponding to the rūpāvacara and arūpāvacara realms; they still belong to “this world” of 31 realms. Just like the human realm is “more peaceful in general” than the animal realm, jhānic states are “more peaceful in general” than the human realm.

Jhāna là những trạng thái tâm tương ứng với các cõi rūpāvacara và arūpāvacara; chúng vẫn thuộc về “thế giới này” gồm 31 cõi. Cũng như cõi người nói chung “an ổn hơn” cõi loài vật, các trạng thái jhāna cũng “an ổn hơn” cõi người.

  • We all have been born in most of the 31 realms (except for the realms reserved for the Anāgāmis) uncountable times, and thus had attained those jhānic states uncountable times in previous lives.

Tất cả chúng ta đều đã từng sinh vào hầu hết trong 31 cõi (ngoại trừ các cõi dành riêng cho Anāgāmi) vô số lần, và vì vậy cũng đã từng đạt những trạng thái jhāna ấy vô số lần trong các kiếp trước.

  • Even this second phenomenon of jhāna is completely outside the realm of modern science. Scientists cannot explain jhānic phenomena, but soon they will not be able to ignore these as “hallucinations” because more and more people are attaining jhāna.

Ngay cả hiện tượng thứ hai này của jhāna cũng hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của khoa học hiện đại. Các nhà khoa học không thể giải thích các hiện tượng jhāna, nhưng sớm thôi họ sẽ không thể xem đó là “ảo giác”, vì ngày càng có nhiều người đạt được jhāna.

  1. Two main factors come into play in cultivating jhānā.

Hai yếu tố chính đóng vai trò trong việc tu tập jhānā.

  • Some people have cultivated jhānā in their recent previous lives and are able to get into anāriya jhānā very quickly. For a few it comes without any effort, just lying on the bed (by the way this can be any person who lives a moral life, whether exposed to Buddha Dhamma or not).

Một số người đã tu tập jhānā trong các tiền kiếp gần đây và có thể nhập anāriya jhānā rất nhanh. Với một vài người, điều đó đến gần như không cần nỗ lực, chỉ cần nằm trên giường (nhân đây, điều này có thể xảy ra với bất kỳ ai sống đời đạo đức, dù có tiếp xúc với Dhamma của Đức Phật hay không).

  • The second factor involves the “cleansing of the physical body,” as discussed below. This means the actual physical body with its nervous system, in addition to cleansing the mind.

Yếu tố thứ hai liên quan đến “sự thanh lọc thân thể,” như trình bày dưới đây. Điều này có nghĩa là thân thể vật lý thật sự cùng với hệ thần kinh của nó, bên cạnh việc thanh lọc tâm.

  1. My late Noble teacher, Waharaka Thero, used the following simile to explain this “cleansing process” and describe the main difference between a jhāna and magga phala.

Vị Thầy cao quý quá cố của tôi, Waharaka Thero, đã dùng phép so sánh sau để giải thích “quá trình thanh lọc” này và nêu sự khác biệt chính giữa một trạng thái jhāna và magga phala.

  • I hope you have at least heard about — preferably seen — an old oil lantern with a glass enclosure where the wick is soaked in oil or gasoline that comes up through the wick from a built-in reservoir.

Tôi hy vọng bạn ít nhất đã nghe — tốt nhất là đã thấy — loại đèn dầu cổ có chụp kính, trong đó tim đèn thấm dầu hay xăng được dẫn lên từ bình chứa bên trong.

  • If gasoline is contaminated, the glass enclosure gets dirty quickly. In the same way, our defiled thoughts lead to a “contamination effect” in our physical bodies.

Nếu nhiên liệu bị nhiễm bẩn, chụp kính sẽ nhanh chóng bám dơ. Tương tự, các ý nghĩ nhiễm ô của chúng ta gây ra “hiệu ứng nhiễm bẩn” trong thân thể vật lý.

  • Many body ailments, including bodily pains and even some diseases, COULD BE reduced by cleansing one’s mind. Of course, those initially arise due to kamma vipāka, and this process may not overcome the stronger ones; see, “What is Kamma? – Is Everything Determined by Kamma?”.

Nhiều chứng bệnh của thân, gồm cả đau nhức và thậm chí một số bệnh tật, CÓ THỂ thuyên giảm nhờ thanh lọc tâm. Dĩ nhiên, những thứ ấy khởi lên ban đầu do kamma vipāka, và tiến trình này có thể không vượt qua được các quả mạnh; xem “What is Kamma? – Is Everything Determined by Kamma?”.

  1. Our thoughts can be compared to the burning wick and the physical body of the glass enclosure in the above simile. When the thoughts become defiled, the body will be “contaminated” giving rise to discomforts and even diseases. We will discuss the causes below.

Trong phép so sánh trên, tư tưởng của chúng ta có thể được ví với tim đèn đang cháy, và thân thể vật lý như chụp kính. Khi các ý nghĩ bị nhiễm ô, thân sẽ bị “nhiễm bẩn”, sinh ra các khó chịu và thậm chí bệnh tật. Chúng ta sẽ bàn về các nguyên nhân bên dưới.

  • The lamp’s glass enclosure needs to be removed and cleaned in order for it to shine bright again, i.e., to make the “body of the lamp” clean again.

Chụp kính của đèn cần được tháo ra và lau sạch thì đèn mới sáng trở lại, tức làm “thân của chiếc đèn” sạch trở lại.

  • In contrast, there is a built-in mechanism for our bodies to be cleansed.

Trái lại, nơi thân chúng ta có một cơ chế sẵn có giúp thanh lọc.

  • This built-in mechanism is our cittaja kāya or our thoughts. The primary mechanism is that javana citta in our thoughts (cittaja kāya) produces good or bad energy fields called utuja kāya. These are rūpa below the suddhaṭṭhaka stage (very fine), analogous to electromagnetic waves in physics.

Cơ chế sẵn có ấy là cittaja kāya của chúng ta, tức các tư tưởng. Cơ chế chủ đạo là javana citta trong các ý nghĩ (cittaja kāya) tạo ra những trường năng lượng thiện hay bất thiện gọi là utuja kāya. Chúng là rūpa dưới mức suddhaṭṭhaka (rất vi tế), tương tự sóng điện từ trong vật lý.

  • Immoral thoughts associated with dasa akusala lead to the contamination of the body, and good thoughts generate utuja kāya that can clean up such contamination.

Các tư tưởng bất thiện gắn với dasa akusala làm nhiễm bẩn thân, còn các tư tưởng thiện tạo ra utuja kāya có thể làm sạch sự nhiễm bẩn ấy.

  • If you need more information on these terms, the “Search box” at the top right can be used to find more relevant posts.

Nếu bạn cần thêm thông tin về các thuật ngữ này, có thể dùng “Ô tìm kiếm” ở góc trên bên phải để tìm các bài liên quan.

  1. This utuja kāya (an energy field) can and does affect our physical body. This is why people who are depressed or have high levels of anger or greed, are more likely to be subjected to ailments and diseases, and people with joyful mindsets have relatively healthy bodies.

Utuja kāya (một trường năng lượng) này có thể và thực sự ảnh hưởng đến thân thể vật lý. Vì vậy, những người trầm uất hoặc có mức sân hay tham cao thường dễ mắc các khó chịu và bệnh tật, còn người có tâm hoan hỷ thì thân thể tương đối khỏe mạnh.

  • This effect can be enhanced via nirāmisa sukha that arises due to “moral living.” The more one stays away from the dasa akusala, the happier one becomes, and starts feeling “sukha” in the body. It may not be fast, but it happens over time.

Hiệu ứng này có thể được tăng cường nhờ nirāmisa sukha sinh khởi từ “đời sống đạo đức.” Càng tránh xa dasa akusala, người ta càng hạnh phúc và bắt đầu cảm nhận “sukha” nơi thân. Có thể không nhanh, nhưng điều đó sẽ xảy ra theo thời gian.

  • Comprehending Tilakkhaṇa can enhance it much more. The difference here is that one will then stay away from dasa akusala mainly because one would have realized the fruitlessness and danger of seeking sensual pleasures by committing dasa akusala.

Thấu hiểu Tilakkhaṇa còn tăng cường điều này hơn nữa. Khác biệt ở đây là khi ấy người ta tránh xa dasa akusala chủ yếu vì đã thấy rõ sự vô ích và nguy hiểm của việc truy cầu khoái lạc giác quan bằng cách tạo tác dasa akusala.

  1. I have discussed — starting with basics — how our thoughts can affect our well-being in the “Living Dhamma” section. Understanding those basic concepts is crucial in order to understand deeper concepts and to do Ānāpāna and Satipaṭṭhāna Bhāvanā effectively as discussed later in that section.

Tôi đã trình bày — bắt đầu từ căn bản — cách các tư tưởng ảnh hưởng đến an lạc của chúng ta trong mục “Living Dhamma”. Hiểu những khái niệm nền tảng ấy là thiết yếu để nắm các khái niệm sâu hơn và hành Ānāpāna cùng Satipaṭṭhāna Bhāvanā một cách hiệu quả, như được bàn ở phần sau của mục đó.

  • When defiled thoughts are suppressed at least for a short time (during a desanā or while reading Dhamma), one’s mind becomes joyful and one can get samādhi for a short time (tadaṅga pahāna).

Khi các tư tưởng nhiễm ô được đè nén ít nhất trong một khoảng ngắn (trong lúc nghe desanā hoặc khi đọc Dhamma), tâm trở nên hoan hỷ và người ấy có thể đạt samādhi trong thời gian ngắn (tadaṅga pahāna).

[pahāna : (nt.) removal; giving up; abandoning; avoidance.

[pahāna: (trung tính) sự loại bỏ; từ bỏ; dứt bỏ; tránh né.

pahāna : ‘overcoming,’ abandoning. There are 5 kinds of overcoming:

pahāna: ‘chế ngự’, từ bỏ. Có 5 loại chế ngự:

(1) overcoming by repression (vikkhambhana-pahāna), i.e. the temporary suspension of the 5 hindrances (WebLink: palikanon.com: nīvaraṇa) during the absorptions, [vikkhambhana : [nt.] arrest; elimination; discarding; suppression.]

(1) chế ngự bằng cách đè nén (vikkhambhana-pahāna), tức là tạm thời đình chỉ 5 chướng ngại (WebLink: palikanon.com: nīvaraṇa) trong khi nhập các tầng định; [vikkhambhana: (trung tính) ngăn chặn; loại bỏ; gạt bỏ; đè nén.]

(2) overcoming by the opposite (tadaṅga-pahāna),

(2) chế ngự bằng pháp đối trị (tadaṅga-pahāna),

(3) overcoming by destruction (samuccheda-pahāna),

(3) chế ngự bằng đoạn diệt (samuccheda-pahāna),

(4) overcoming by tranquillization (patipassaddhi-pahāna),

(4) chế ngự bằng sự lắng dịu (patipassaddhi-pahāna),

(5) overcoming by escape (nissaraṇa-pahāna).

(5) chế ngự bằng xuất ly (nissaraṇa-pahāna).

(1) “Among these, ‘overcoming by repression’ is the pushing back of adverse things, such as the 5 mental hindrances (WebLink: palikanon.com: nīvaraṇa), etc., through this or that mental concentration (samādhi, q.v.), just as a pot thrown into moss-clad water pushes the moss aside….

(1) “Trong số này, ‘chế ngự bằng đè nén’ là đẩy lùi các điều bất thiện như 5 chướng ngại (WebLink: palikanon.com: nīvaraṇa), v.v., thông qua sự tập trung tâm (định) (samādhi) này hay khác, giống như một cái chum ném xuống mặt nước phủ rêu sẽ đẩy rêu tách sang hai bên….

(2) “ ‘Overcoming by the opposite’ is the overcoming by opposing this or that thing that is to be overcome, by this or that factor of knowledge belonging to insight (vipassanā q.v.), just as a lighted lamp dispels the darkness of the night. In this way, the personality-belief (sakkāyadiṭṭhi, s. WebLink: palikanon.com: diṭṭhi) is overcome by determining the mental and corporeal phenomena … the view of uncausedness of existence by investigation into the conditions… the idea of eternity by contemplation of impermanency … the idea of happiness by contemplation of misery….

(2) “ ‘Chế ngự bằng pháp đối trị’ là chế ngự bằng cách đối trị những điều cần được chế ngự nhờ các yếu tố tri kiến thuộc tuệ quán (vipassanā), như ngọn đèn thắp sáng xua tan bóng đêm. Theo cách này, thân kiến (sakkāyadiṭṭhi; xem WebLink: palikanon.com: diṭṭhi) được chế ngự bằng sự quán sát các hiện tượng tâm và vật chất… tà kiến về không có nhân được chế ngự bằng quán xét các duyên/điều kiện… quan niệm thường hằng được chế ngự bằng quán vô thường… quan niệm lạc/hạnh phúc được chế ngự bằng quán khổ….

(3) “If through the knowledge of the noble path (s. WebLink: palikanon.com: ariyapuggala) the fetters and other evil things cannot continue any longer, just like a tree destroyed by lightning, then such an overcoming is called ‘overcoming by destruction’ ” (Vis.M. XXII, 110f.).

(3) “Nếu nhờ trí tuệ của Thánh đạo (xem WebLink: palikanon.com: ariyapuggala) mà các xiềng xích và những điều bất thiện khác không thể tiếp tục tồn tại nữa, giống như cây bị sét đánh tiêu hủy, thì sự chế ngự như vậy được gọi là ‘chế ngự bằng đoạn diệt’ ” (Vis.M. XXII, 110f.).

(4) When, after the disappearing of the fetters at the entrance into the paths, the fetters, from the moment of fruition (phala) onwards, are forever extinct and stilled, such overcoming is called the ‘overcoming by tranquillization’.

(4) Khi, sau lúc các xiềng xích biến mất tại thời điểm bước vào đạo, kể từ khoảnh khắc quả (phala) trở đi, các xiềng xích vĩnh viễn diệt tận và lắng yên, thì sự chế ngự ấy được gọi là ‘chế ngự bằng sự lắng dịu’.

(5) “The ‘overcoming by escape’ is identical with the extinction and Nibbāna” (Pts. M. I. 27). (App.).]

(5) “ ‘Chế ngự bằng xuất ly’ đồng nhất với sự tắt diệt và Nibbāna ” (Pts. M. I. 27). (Phụ lục).]

  • If one spends more and more time doing such activities, the length of this calm mindset (samādhi) can be lengthened, even up to weeks (vikkhambhana pahāna). Three types of pahāna are discussed in “Suffering in This Life – Role of Mental Impurities.”

Nếu dành ngày càng nhiều thời gian cho các thực hành như vậy, thời lượng của trạng thái tâm an tĩnh (samādhi) có thể kéo dài, thậm chí đến hàng tuần (vikkhambhana pahāna). Ba loại pahāna được bàn trong “Suffering in This Life – Role of Mental Impurities.”

  • That may not be jhāna yet, but it is possible to get into jhāna by increasing one’s efforts through either Samatha or Vipassanā

Đó có thể chưa phải là jhāna, nhưng có thể đạt jhāna bằng cách gia tăng nỗ lực qua thiền Samatha hoặc Vipassanā.

  • As we mentioned above, it is easier for some people to cultivate a jhāna because they have cultivated jhānā in recent previous births.

Như đã nói ở trên, với một số người, việc tu tập jhāna dễ hơn vì họ đã từng tu tập jhānā trong các đời trước gần đây.

  1. The power of a javana citta is increased when one is in samādhi and is even more when one gets to a jhāna. The “body cleansing effect” is enhanced and one starts feeling joy in the face and sukha in the body.

Năng lực của javana citta tăng lên khi ở trong samādhi và còn mạnh hơn khi đạt jhāna. “Hiệu ứng thanh lọc thân” được tăng cường và người hành bắt đầu cảm nhận hỷ trên gương mặt và sukha nơi thân.

  • This can be compared to the wick in the oil lamp generating a “high-power laser light” that automatically cleans the dirty glass enclosure.

Điều này có thể ví như tim đèn dầu tạo ra “tia laser công suất cao” tự động làm sạch chụp kính bám bẩn.

  • That bright “utuja kāya,” which are also called “kirana” (or electromagnetic waves in physics), can burn those long-accumulated “bad deposits” in our bodies and also “straighten out” the nervous system.

“Utuja kāya” sáng rực ấy, còn gọi là “kirana” (tương đương sóng điện từ trong vật lý), có thể đốt cháy các “cặn xấu” tích tụ lâu ngày trong thân và “nắn thẳng” hệ thần kinh.

  • This is the first confirmation of the effect of the mind on the body for someone starting on the Path. One can actually convince oneself that the body CAN BE affected by one’s thoughts.

Đây là xác chứng đầu tiên về ảnh hưởng của tâm lên thân đối với người mới bước vào Con đường (Đạo). Mỗi người có thể tự mình xác nhận rằng thân QUẢ THỰC có thể bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của chính mình.

  1. All this can be done by SUPPRESSING pañcanīvaraṇa for a long time, see, “Key to Calming the Mind – The Five Hindrances.”

Tất cả điều này có thể đạt được bằng cách ĐÈ NÉN pañcanīvaraṇa trong thời gian dài; xem “Key to Calming the Mind – The Five Hindrances.”

  • Even before the Buddha, ancient yogis were able to get to jhāna by SUPPRESSING defiled thoughts or pañca nīvaraṇa. They did this mainly by staying away from sensual objects (usually in a forest or an isolated place).

Ngay cả trước thời Đức Phật, các yogi cổ đại đã có thể đạt jhāna bằng cách ĐÈ NÉN các ý nghĩ nhiễm ô hay pañca nīvaraṇa. Họ làm điều đó chủ yếu bằng cách tránh xa các đối tượng giác quan (thường ở rừng núi hay nơi vắng vẻ).

  • They were able to cultivate powerful abhiññā and even travel through the air.

Họ có thể tu tập các abhiññā mạnh mẽ và thậm chí có thể bay trên không.

  • As long as one’s mind can be kept away from greedy and hateful thoughts, such states of samādhi and jhāna can be maintained for a long time (vikkhambhana pahāna).

Chỉ cần tâm được giữ khỏi các ý tưởng tham và sân, những trạng thái samādhi và jhāna như vậy có thể duy trì lâu dài (vikkhambhana pahāna).

  • This is related to the fact that how people can go to even anāriya meditation retreats (breath meditation) and attain a sense of peace for many days at a stretch. However, it slowly fades when they return and get back into the regular lifestyle.

Điều này liên hệ với việc nhiều người có thể tham dự các khóa thiền anāriya (thiền hơi thở) và đạt cảm giác an tĩnh suốt nhiều ngày liền. Tuy nhiên, khi trở về và quay lại nếp sống thường nhật, cảm giác ấy dần phai nhạt.

  1. The problem is that those effects are only temporary with jhāna without magga phala. They have not removed the root cause of getting attached to greed and hate. They remain hidden deep down as anusaya/saṁyojana.

Vấn đề là những hiệu ứng đó chỉ mang tính tạm thời khi có jhāna mà không có magga phala. Căn gốc dẫn đến sự chấp thủ vào tham và sân chưa được đoạn trừ. Chúng vẫn ẩn sâu dưới dạng anusaya/saṁyojana.

  • This is discussed in detail in “Power of the Human Mind – Anāriya or Mundane Jhāna.”

Điều này được trình bày chi tiết trong “Power of the Human Mind – Anāriya or Mundane Jhāna.”

  • Those who cultivate jhāna are reborn in Brahma realms, which belong to the 31 realms. Thus, cultivating jhāna and being reborn in a Brahma realm does not help attain Nibbāna: “Sīla, Samādhi, Paññā to Paññā, Sīla, Samādhi.”

Những ai tu tập jhāna sẽ tái sinh vào các cõi Brahma , vốn thuộc 31 cõi. Vì vậy, việc tu tập jhāna và tái sinh về cõi Brahma không giúp đạt Nibbāna: “Sīla, Samādhi, Paññā to Paññā, Sīla, Samādhi.”

  1. Now, we are getting closer to seeing the difference between anāriya and Ariya jhāna (as defined in #1).

Giờ đây, chúng ta tiến gần hơn tới việc thấy rõ khác biệt giữa anāriya và Ariya jhāna (như đã định nghĩa ở mục #1).

  • The main difference between them is that an Ariya jhāna is permanent since they are attained via REMOVING and not just SUPPRESSING the kāma rāga anusaya/saṁyojana.

Khác biệt chủ yếu là Ariya jhāna mang tính bền vững vì được đạt đến bằng cách DIỆT TRỪ chứ không chỉ ĐÈ NÉN kāma rāga anusaya/saṁyojana.

  • Once removed via wisdom (paññā) when attaining the Sotāpanna stage of Nibbāna, some of those anusaya/saṁyojana are permanently removed from one’s mind (uccheda pahāna).

Khi đạt tầng Sotāpanna của Nibbāna, nhờ trí (paññā) mà một số anusaya/saṁyojana được đoạn trừ vĩnh viễn khỏi tâm (uccheda pahāna).

  • After that, no matter how strong an attractive/hateful sensory input comes in, defiled thoughts (of apāyagāmi strength) CANNOT arise in a Sotāpanna; see, “Akusala Citta – How a Sotāpanna Avoids Apāyagāmi Citta,” and other relevant posts in the “Sotāpanna Stage of Nibbāna.”

Sau đó, bất kể kích thích giác quan hấp dẫn hay đáng ghét mạnh tới đâu, các ý nghĩ nhiễm ô (ở mức dẫn về apāya, tức apāyagāmi) KHÔNG thể khởi lên nơi một Sotāpanna; xem “Akusala Citta – How a Sotāpanna Avoids Apāyagāmi Citta,” và các bài liên quan trong mục “Sotāpanna Stage of Nibbāna.”

  1. The remaining key to the puzzle is that it is possible to attain magga phala just by getting into samādhi and not necessarily to jhāna.

Mấu chốt còn lại là có thể đạt magga phala chỉ bằng cách vào samādhi, chứ không nhất thiết phải đạt jhāna.

  • There are many types of people based on their gati (personalities) and capabilities: saddhā, viriya, samādhi, sati, paññā. The suttā in the Tipiṭaka are separated into five Nikāyas based on that so that each individual can study appropriate suttā for him/her, see, “Nikāya in the Sutta Piṭaka.”

Có nhiều loại người dựa trên gati (cá tính) và các năng lực: saddhā, viriya, samādhi, sati, paññā. Các suttā trong Tipiṭaka được phân thành năm Nikāya dựa trên điều đó để mỗi người có thể học các suttā thích hợp; xem “Nikāya in the Sutta Piṭaka.”

  • Without getting into details, people with predominantly paññā indriya can attain magga phala without going through jhāna.

Không đi sâu chi tiết, những người thiên về paññā indriya có thể đạt magga phala mà không cần qua jhāna.

  • Others can go through jhānā to attain magga phala. This is not clear-cut, but to get an idea.

Những người khác có thể đi qua jhānā để đạt magga phala. Điều này không phải ranh giới rạch ròi, nhưng giúp hình dung khái quát.

  1. The bottom line is that jhānā can be pretty helpful in getting to magga phala. Furthermore, one may attain both within a reasonably short time. But magga phala (at least the Sotāpanna stage) comes before Ariya jhāna are attained.

Tóm lại, jhānā có thể rất hữu ích để đạt magga phala. Hơn nữa, có người có thể đạt cả hai trong khoảng thời gian tương đối ngắn. Tuy nhiên, magga phala (ít nhất là tầng Sotāpanna) đến trước khi Ariya jhāna được chứng.

  • The reason is that uccheda pahānā mentioned in #12, which is necessary for the Ariya jhāna, and cannot occur unless one has comprehends the Tilakkhaṇa and attains the Sotāpanna

Lý do là uccheda pahānā nêu ở mục #12 — điều kiện cần cho Ariya jhāna — không thể xảy ra nếu chưa thấu triệt Tilakkhaṇa và đạt tầng Sotāpanna.

  • One typically attains Ariya jhāna by recalling the (stage of) Nibbāna that one has seen, and the “cooling down” that one has thus experienced; see, “Power of the Human Mind – Ariya Jhānā.”

Thông thường, người ta chứng Ariya jhāna bằng cách nhớ lại (tầng bậc của) Nibbāna đã từng thấy và sự “mát dịu” đã kinh nghiệm; xem “Power of the Human Mind – Ariya Jhā.

  1. For people with high levels of paññā, even a brief state of samādhi, called tadaṅga pahāna (see #8 above,) is enough to attain the Sotāpanna A famous example is Bahiya Daruchiriya who attained the Arahantship upon hearing just a single verse.

Với những người có mức paññā cao, chỉ cần một trạng thái samādhi ngắn — gọi là tadaṅga pahāna (xem mục #8 ở trên) — cũng đủ để đạt tầng Sotāpanna. Ví dụ nổi tiếng là Bahiya Daruchiriya, người đã chứng Arahantship chỉ sau khi nghe một bài kệ.

  • Then there are accounts of many people who attained the Sotāpanna stage via vikkhambhana pahāna (see #8 and #10 above), mainly while listening to a desanā by the Buddha.

Cũng có nhiều ghi chép về những người đạt tầng Sotāpanna qua vikkhambhana pahāna (xem mục #8 và #10 ở trên), chủ yếu trong khi lắng nghe một desanā của Đức Phật.

  • For example, Alavaka yaksa (not a niraya yaksa but a deva yaksa) threatened the Buddha just before sitting down to listen to a desanā. He attained the Sotāpanna stage during the desanā. Aṅgulimāla chased the Buddha with the intention of killing him but attained the Sotāpanna stage immediately afterward.

Chẳng hạn, Alavaka yaksa (không phải niraya yaksa mà là deva yaksa) đã đe dọa Đức Phật ngay trước khi ngồi xuống nghe desanā. Ông đạt tầng Sotāpanna trong khi nghe desanā. Aṅgulimāla từng đuổi theo Đức Phật với ý định sát hại, nhưng ngay sau đó đã chứng đắc tầng Sotāpanna.

  • More information on the three kinds of pahāna can be found in, “What Are Kilesa (Mental Impurities)? – Connection to Cetasika.”

Thông tin chi tiết về ba loại pahāna có thể xem trong “What Are Kilesa (Mental Impurities)? – Connection to Cetasika.”

  1. Therefore, there can be people with magga phala without any jhāna.

Do đó, có thể có những người đạt magga phala mà không có jhāna nào.

  • If there are people with magga phala without jhāna, they cannot experience the “jhānic sukha” in the body. Even though they do not generate “bad thoughts” to further contaminate their bodies, they have not cleansed the old contaminants. Jhānic javana citta (that can run continuously for long times, compared to just seven javana citta in a normal citta vīthi) are like laser beams that can clean contaminants in the body even in an anāriya jhāna; see #4 of “Citta Vīthi – Processing of Sense Inputs.”

Nếu có những người đạt magga phala mà không có jhāna, họ sẽ không trải nghiệm “jhānic sukha” nơi thân. Dù họ không còn tạo “ý nghĩ xấu” để làm nhiễm bẩn thân thêm, họ vẫn chưa làm sạch các ô nhiễm cũ. Jhānic javana citta (có thể vận hành liên tục trong thời gian dài, so với chỉ bảy javana citta trong một citta vīthi bình thường) giống như các tia laser có thể làm sạch ô nhiễm trong thân, ngay cả trong anāriya jhāna; xem mục #4 của “Citta Vīthi – Processing of Sense Inputs.”

  • In the simile of #5 above, this is like a wick not emitting any more smoke, but the glass enclosure is not yet cleaned.

Theo phép so sánh ở mục #5 bên trên, điều này giống như tim đèn không còn nhả khói, nhưng chụp kính vẫn chưa được lau sạch.

  • Of course, it would be easier for a person with magga phala to attain Ariya jhāna. However, there could be Ariyas below the Anāgāmi stage with anāriya jhāna; they will be born in the corresponding Brahma realm and will attain Nibbāna from there.

Dĩ nhiên, với người đã có magga phala thì việc chứng Ariya jhāna sẽ dễ hơn. Tuy vậy, vẫn có thể có các bậc Ariya dưới tầng Anāgāmi nhưng lại có anāriya jhāna; họ sẽ tái sinh vào cõi Phạm thiên tương ứng và chứng Nibbāna từ đó.

  1. Finally, from the above discussion it appears that the only way to confirm the attainment of the Sotāpanna stage is to see whether one has removed the three saṁyojana (sanyojana) of sakkāya diṭṭhi, vicikicchā, and sīlabbata parāmāsa; see “Sakkāya Diṭṭhi – ‘Not Seeing the Unfruitful Nature of the World’.”

Sau cùng, từ những bàn luận trên, có vẻ như cách duy nhất để xác nhận việc đạt tầng Sotāpanna là xem người ấy đã đoạn trừ ba saṁyojana (sakkāya diṭṭhi, vicikicchā, và sīlabbata parāmāsa) hay chưa; xem “Sakkāya Diṭṭhi – ‘Not Seeing the Unfruitful Nature of the World’.”

  • And that cannot be determined by anyone else, but oneself.

Và điều đó không thể do ai khác xác định, ngoài chính tự thân mỗi người.

  1. April 28, 2018: I found a desanā by Waharaka Thero where he presents clear evidence that jhāna is not necessary to attain magga phala:

Ngày 28/04/2018: Tôi tìm thấy một desanā của Waharaka Thero, trong đó ngài đưa ra bằng chứng rõ ràng rằng jhāna không cần thiết để đạt magga phala:

WebLink: Download “Are Jhāna Required for Magga-Phala

  • The main point Thero makes is that we know that there are jāti Sotāpannas born in the human realm. But if a jhāna was REQUIRED to attain the Sotāpanna stage, then that person WOULD NOT be born in the human realm, but in a Brahma realm corresponding to that jhāna.

Điểm chính Thero nêu là: ta biết có những jāti Sotāpanna sinh ở cõi người. Nhưng nếu jhāna LÀ ĐIỀU KIỆN BẮT BUỘC để đạt tầng Sotāpanna, thì người ấy SẼ KHÔNG sinh ở cõi người, mà ở một cõi Brahma tương ứng với jhāna đó.

  • More information with references to suttā at: “Samādhi, Jhāna (Dhyāna), Magga Phala.”

Thông tin thêm kèm tham chiếu suttā tại: “Samādhi, Jhāna (Dhyāna), Magga Phala.”