Are There Procedures for Attaining Magga Phala, Jhāna and Abhiññā? / Có những phương pháp nào để chứng Magga Phala, Jhāna và Abhiññā?

April 23, 2017; revised July 15, 2020; April 19, 2024

Ngày 23/04/2017; chỉnh sửa ngày 15/07/2020; 19/04/2024

  1. Learning Dhamma (or following the Path) is very different from learning mundane subjects like history, economics, or even science and mathematics.

Việc học Dhamma (hay hành Đạo) rất khác so với học các môn thế gian như lịch sử, kinh tế, hay thậm chí là khoa học và toán học.

  • Ariya jhāna and subsequent abhiññā powers are realized as “by-products” after one attains the Sotāpanna Of course, only some of those can cultivate jhāna and subsequent abhiññā powers.

Ariya jhāna và các năng lực abhiññā theo sau chỉ phát sinh như “hệ quả tự nhiên” sau khi đạt tầng Sotāpanna. Dĩ nhiên, chỉ một số người có khả năng tiếp tục tu tập jhāna và phát triển các năng lực abhiññā.

  • Even attaining magga phala does not have set procedures, other than following the Eightfold Path. However, kammaṭṭhāna based on one’s personality can be helpful.

Ngay cả việc chứng magga phala cũng không có quy trình cố định nào ngoài việc hành theo Bát Chánh Đạo. Tuy nhiên, chọn kammaṭṭhāna phù hợp với tính cách cá nhân có thể có ích.

  • The most important thing is to cleanse one’s mind. Things just become clear with a purified mind.

Điều quan trọng nhất là thanh tịnh hóa tâm. Khi tâm trong sạch, mọi điều tự nhiên trở nên sáng tỏ.

  1. There is an excellent example described in the Tipiṭaka. There were two bhikkhus at the time of the Buddha called Mahāpanthaka and Cūḷapanthaka. They were brothers and Ven. Mahāpanthaka was the elder. Ven. Mahāpanthaka had been trying to teach Ven. Cūḷapanthaka a particular verse (gāthā) for six months, but Ven. Cūḷapanthaka was unable to memorize it.

Trong Tipiṭaka có một ví dụ rất hay. Thời Đức Phật, có hai vị bhikkhu tên là Mahāpanthaka và Cūḷapanthaka. Họ là anh em ruột, và Tôn giả Mahāpanthaka là anh cả. Trong sáu tháng, Tôn giả Mahāpanthaka đã cố dạy em mình một bài kệ (gāthā), nhưng Cūḷapanthaka vẫn không thể học thuộc được.

  • Mahāpanthaka got frustrated and asked Ven. Cūḷapanthaka to disrobe and he left crying. The Buddha saw this incident and realized that Ven. Cūḷapanthaka had very unique hidden capabilities.

Tôn giả Mahāpanthaka bực bội và bảo em hoàn tục, khiến Cūḷapanthaka bỏ đi trong nước mắt. Đức Phật thấy vậy và nhận ra vị này có tiềm năng đặc biệt ẩn sâu.

  • He gave proper instructions to Ven. Cūḷapanthaka, and Ven. Cūḷapanthaka was able to attain not only the Arahantship but also attain vast super-normal (abhiññā) powers within the same day. The trick for Ven. Cūḷapanthaka was to go beyond a specific sticking point blocking his mind.

Ngài ban lời chỉ dẫn thích hợp, và Cūḷapanthaka không chỉ chứng được Arahantship mà còn phát triển các năng lực siêu nhiên (abhiññā) rộng lớn ngay trong ngày hôm đó. Bí quyết nằm ở chỗ vượt qua chướng ngại đang trói buộc tâm.

  • He recited not one but 500 gāthā that day. There are many reports of his abhiññā Once, he made 999 copies of himself and they were all engaged in various activities at the temple.

Trong ngày ấy, ông tụng được không chỉ một mà đến 500 gāthā. Có nhiều ghi chép về các năng lực abhiññā của ông. Có lần, ông hóa hiện 999 thân mình cùng lúc, mỗi thân làm một việc khác nhau trong chùa.

  • The point is that none of that was gained via “book knowledge.” Once the breakthrough came with the instructions from the Buddha, the rest of it gushed through immediately.

Điều đáng nói là những thành tựu đó không đến từ “kiến thức sách vở.” Khi sự bứt phá xảy ra nhờ lời dạy của Đức Phật, mọi điều còn lại tự nhiên tuôn chảy.

Không ai dạy ông cách thuộc 500 bài kệ hay cách tu tập năng lực abhiññā. Câu chuyện này được kể chi tiết trong WebLink: Dhammapada Verse 25 – Cūḷapanthaka Vatthu.

  1. Another example is how Ven. Ānanda attained the Arahanthood and many abhiññā powers overnight. Three months after the Parinibbāna of the Buddha, the first Buddhist Council (Sangāyana) was set to take place, and the day before that, Ven. Ānanda had not attained the He had been a Sotāpanna while the Buddha was alive.

Một ví dụ khác là Tôn giả Ānanda chứng quả Arahantship và nhiều năng lực abhiññā chỉ sau một đêm. Ba tháng sau Parinibbāna của Đức Phật, Hội đồng Phật giáo (Sangāyana) Lần Thứ Nhất được triệu tập, nhưng ngày trước đó, Tôn giả Ānanda vẫn chưa chứng Arahantship. Khi Đức Phật còn sống, ngài mới ở tầng Sotāpanna.

  • Since only “sivpilisimbiya Arahants” (those with paṭisambhidā ñāṇa [‘analytical knowledge’ or ‘discrimination’]) were allowed to attend the Sangāyanā, Ānanda was under pressure to attain the Arahanthood. Despite his efforts, he had not attained it the night before, and he decided to lie down to take a rest. As he was getting into bed, thinking about a Dhamma concept, he attained the Arahantship while not in any of the four postures (he was not on the bed yet but was off the ground).

Vì chỉ “những vị Arahant sivpilisimbiya” (người có paṭisambhidā ñāṇa [‘trí tuệ phân tích’ hay ‘sự phân biệt’]) mới được tham dự, nên Ānanda chịu áp lực lớn. Dù đã nỗ lực, đến đêm trước ngày họp, ngài vẫn chưa chứng quả. Khi nằm xuống nghỉ, trong khoảnh khắc đang suy niệm về một khái niệm của Dhamma, ngài chứng Arahantship ngay lúc chưa chạm đất, không thuộc bất kỳ tư thế nào trong bốn tư thế.

  • Simultaneously, he acquired many abhiññā powers too. The next day, when he went to the Sangāyanā hall, everyone was inside. He stood by the door and announced that he had attained the Arahantship and requested the door be opened. One of the Arahant asked Ven. Ānanda removed the doubts of everyone present about his attainment.

Ngay khi đó, ngài cũng đạt được nhiều năng lực abhiññā. Sáng hôm sau, khi đến giảng đường Sangāyanā, mọi người đã ở trong, Ngài đứng trước cửa và tuyên bố mình đã chứng Arahantship rồi thỉnh cầu mở cửa.
Một vị Arahant
bấy giờ thỉnh Tôn giả Ānanda xua tan mọi hoài nghi của những người hiện diện về sự chứng đắc của ngài.

  • So, Ven. Ānanda went inside through the closed door, traveled through air and took his seat. Then it was clear to everyone that he had not only attained the Arahantship, but also had cultivated abhiññā powers overnight; see, “WebLink: Ānanda — The Guardian of the Dhamma.”

Vì vậy, Tôn giả Ānanda đi xuyên qua cánh cửa đang đóng, bay trong không trung và ngồi vào chỗ. Khi ấy mọi người đều rõ rằng ngài không chỉ đã chứng đắc Arahantship mà còn đã tu tập được các năng lực abhiññā chỉ qua một đêm; xem “WebLink: Ānanda — The Guardian of the Dhamma.”

  1. Waharaka Thero has given the following simile to explain what happens when one attains the Sotāpanna stage, and why it takes only a fraction of a second.

Hòa thượng Waharaka Thero nêu ví dụ sau để giải thích điều xảy ra khi một người chứng quả Sotāpanna, và vì sao điều đó chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc.

  • Suppose person X is running back and forth past a sign that has written some information in small letters. It is impossible to read the sign while running, no matter how many times you run past it.

Giả sử người X chạy qua chạy lại trước một tấm biển có thông tin viết bằng chữ nhỏ. Khi đang chạy thì không thể đọc được, dù bạn lướt qua bao nhiêu lần.

  • But suppose X stops for a few seconds to read the sign and then resumes running back and forth again. Now that he has read the message that is on the post, he knows what is written on it, even though he again cannot read it while running.

Nhưng nếu X dừng lại vài giây để đọc rồi tiếp tục chạy qua chạy lại, thì vì đã đọc được nội dung, anh ấy biết trên biển ghi gì, dù khi chạy tiếp anh ấy lại không đọc được nữa.

  • In the same way, it takes only a fraction of a second for the mind to grasp the true nature of this world (anicca, dukkha, anatta) when the mind is calm AND if one has learned enough background material (in the simile, he must know the language the sign was written in).

Tương tự, chỉ cần một khoảnh khắc để tâm nắm bắt bản chất thật của thế giới này (anicca, dukkha, anatta) khi tâm an tĩnh khi người ấy đã học đủ nền tảng (trong ví dụ, tức là phải biết ngôn ngữ ghi trên biển).

  • While one is gathering this supporting material one is a Sotāpanna Anugāmi. Then the Sotāpanna phala moment can come at any time. It comes and goes even without one realizing it. Only weeks or months later will one realize the permanent change in oneself.

Trong giai đoạn thu thập các tài liệu hỗ trợ ấy, người hành là Sotāpanna Anugāmi. Sau đó khoảnh khắc Sotāpanna phala có thể đến bất kỳ lúc nào; nó đến rồi đi mà ta thậm chí không hay biết. Chỉ vài tuần hay vài tháng sau người ấy mới nhận ra sự đổi thay vĩnh viễn nơi mình.

  1. This is why I said in #1 above, that there are no set procedures for making progress on the Path or developing abhiññā powers (of course, anāriya techniques are different). As one makes progress, one will AUTOMATICALLY receive the results based on one’s progress.

Vì vậy, như đã nói ở mục #1, không có quy trình cố định cho việc tiến bộ trên Đạo hay phát triển các năng lực abhiññā (dĩ nhiên các kỹ thuật anāriya thì khác). Khi tiến bộ, người hành sẽ TỰ ĐỘNG nhận được kết quả tương ứng với mức tiến bộ của mình.

  • One will automatically attain magga phala.

Người ấy sẽ tự nhiên chứng đắc magga phala.

  • One may also attain Ariya jhānic states subsequently, if one had cultivated them in recent previous lives. For others, it may take some time to cultivate Ariya jhāna. Jhāna are very different from magga phala, and it may not be easy to verify whether one has attained Ariya or anāriya jhāna; see, “Difference Between Jhāna and Stages of Nibbāna.”

Người ấy cũng có thể chứng các tầng Ariya jhāna sau đó, nếu đã từng tu tập chúng trong những đời gần đây. Với người khác, cần thời gian để nuôi dưỡng Ariya jhāna. Jhāna rất khác magga phala, và không dễ xác định mình đạt Ariya jhāna hay anāriya jhāna; xem Difference Between Jhāna and Stages of Nibbāna.”

  • While certain meditation techniques COULD be helpful, the two main factors are kusala sīla (moral living) and comprehending the fundamental nature of this world, i.e., Tilakkhaṇa.

Dù một số kỹ thuật thiền CÓ THỂ hữu ích, hai yếu tố chính vẫn là kusala sīla (đời sống thiện lành) và thấu hiểu bản chất nền tảng của thế giới này, tức Tilakkhaṇa.

  1. Our goal should be to eliminate future suffering by cultivating wisdom (paññā), and thereby getting rid of micchā diṭṭhi.

Mục tiêu của ta là đoạn trừ khổ đau tương lai bằng cách nuôi dưỡng trí tuệ (paññā), từ đó dứt bỏ micchā diṭṭhi.

  • Of course, learning correct Dhamma is a joyful experience that can motivate one to learn further and thereby help comprehend the true message of the Buddha.

Việc học đúng Dhamma dĩ nhiên là trải nghiệm hoan hỷ, khích lệ ta học tiếp và nhờ vậy hiểu đúng thông điệp của Đức Phật.

  • The key is not to confuse “learning” with “memorization.” One needs to get the key idea or saññā of a given concept. When one gets the saññā of a concept, one will never lose it: “What is Saññā (Perception)?.”

Mấu chốt là đừng nhầm “học” với “học thuộc lòng.” Ta cần nắm được ý chính hay saññā của một khái niệm. Khi đã nắm được saññā của khái niệm ấy, ta sẽ không đánh mất nó: “What is Saññā (Perception)?.”

  1. This website with hundreds of posts could discourage people, if they try to memorize all these different things to learn Dhamma.

Trang web với hàng trăm bài viết này có thể làm nản lòng nếu người học cố học thuộc mọi thứ để học Dhamma.

  • It is not necessary to MEMORIZE ANYTHING. Most of the material on the website is for reference. If one forgets some details about a concept it is easy to use the menu system, “Search” button at the top right, or the Pure Dhamma – Sitemap to locate relevant posts.

KHÔNG CẦN HỌC THUỘC BẤT CỨ THỨ GÌ. Phần lớn nội dung mang tính tham khảo. Nếu quên chi tiết nào đó, có thể dùng hệ thống menu, nút “Search” (Tìm kiếm) ở góc phải trên, hoặc Pure Dhamma – Sitemap để tìm bài liên quan.

  • However, listening to desanā or reading Dhamma (and then grasping concepts, not memorizing) is an essential part of learning (grasping concepts).

Tuy vậy, nghe desanā hay đọc Dhamma (và rồi nắm ý niệm, không phải học vẹt) là phần cốt yếu của việc học.

  • Getting into jhānā or attaining magga phala does not have set procedures. They will AUTOMATICALLY be realized as one follows the Path and one’s wisdom grows.

Việc nhập jhāna hay chứng magga phala không có quy trình cứng; chúng sẽ được TỰ ĐỘNG thành tựu khi ta đi đúng Đạo và trí tuệ lớn dần.

  • The key is to stay away from dasa akusala, live a moral life, and comprehend the key message embedded in anicca, dukkha, anatta by learning Dhamma and contemplating.

Điều mấu chốt là tránh xa dasa akusala, sống đời đạo đức, và thấu hiểu thông điệp cốt lõi nằm trong anicca, dukkha, anatta bằng cách học Dhamma và quán chiếu.

  • By the way, there is a connection between dasa akusala and anatta; see, “Dasa Akusala and Anatta – The Critical Link.” So, anicca, dukkha, anatta are related to dasa akusala.

Nhân đây, có mối liên hệ giữa dasa akusala và anatta; xem “Dasa Akusala and Anatta – The Critical Link.” Vì vậy, anicca, dukkha, anatta có liên quan đến dasa akusala.

  1. Memory and wisdom are two different things, even though they are somewhat related. To comprehend the message of the Buddha, one should cultivate wisdom (paññā) instead of memorizing verses. Let us take a simple example to explain this.

Trí nhớ và trí tuệ là hai điều khác nhau, dù có phần liên quan. Để hiểu thông điệp của Đức Phật, cần nuôi dưỡng trí tuệ (paññā) thay vì chỉ học thuộc các bài kệ. Hãy lấy một ví dụ đơn giản để minh họa.

  • A child can learn addition by memorizing. Then, he/she will be able to give the right answer to the addition of two numbers that have been memorized, but he/she will not be able to add two randomly chosen numbers.

Một đứa trẻ có thể học phép cộng bằng cách học thuộc lòng. Khi đó, em có thể trả lời đúng với những cặp số đã thuộc, nhưng sẽ không cộng được hai số chọn ngẫu nhiên.

  • However, if the child is taught HOW TO add two numbers, using a technique like using the fingers in the hand to represent numbers. it will be possible to “see” WHY two plus three equals to five. Then the child will be able to add any two numbers.

Tuy nhiên, nếu đứa trẻ được dạy CÁCH cộng hai số, chẳng hạn dùng các ngón tay để biểu diễn số lượng, em sẽ “thấy” VÌ SAO hai cộng ba bằng năm. Khi đó, em có thể cộng bất kỳ hai số nào.

  • Once that is grasped, it would be easy for the child to then learn subtraction, multiplication, and division.

Khi đã nắm được nguyên lý, em sẽ dễ dàng học phép trừ, nhân và chia.

  • However, it will be an impossible task to memorize the addition, subtraction, multiplication, and division of any two numbers.

Tuy nhiên, việc cố học thuộc mọi phép cộng, trừ, nhân, chia của mọi cặp số là bất khả thi.

  1. There is a fundamental difference between “real learning” (grasping concepts) and memorization (just blindly following rules/instructions).

Có một khác biệt căn bản giữa “học thật sự” (nắm bắt khái niệm) và học vẹt (chỉ làm một cách máy móc theo quy tắc/hướng dẫn).

  • This is a concept that is hard to grasp for many these days because we are used to “book learning.” Many people who can repeat specific tasks mechanically without even bothering to think through. And then when the situation changes somewhat, they do not know how to handle the “new situation.”

Đây là điều khó nắm bắt với nhiều người ngày nay vì chúng ta quen với “học từ sách vở.” Nhiều người có thể lặp lại các thao tác một cách máy móc mà không cần suy nghĩ; rồi khi hoàn cảnh thay đổi đôi chút, họ không biết xử lý “tình huống mới” ra sao.

  1. The Buddha’s message is unique. It goes far beyond moral living. Some people think that by living a moral life, one can get an afterlife in heaven forever.

Thông điệp của Đức Phật là độc nhất. Nó vượt xa việc chỉ sống đạo đức. Có người nghĩ rằng sống đạo đức sẽ được hưởng cõi trời vĩnh viễn sau khi chết.

  • On the other end of the spectrum, another set of people believe that killing those who are unfaithful to their God can also lead to a heavenly life, which should be beyond belief for any reasonable person.

Ở thái cực kia, có người lại tin rằng giết kẻ không trung thành với Vị thần của họ cũng đưa đến thiên đường, điều này hẳn là khó chấp nhận với bất kỳ ai có lý trí.

  • However, if a mind is contaminated from an early age, such dangerous ideas sink into the mind and are very hard to change.

Tuy vậy, nếu tâm đã bị ô nhiễm từ tuổi còn trẻ, những quan niệm nguy hiểm ấy sẽ thấm sâu và rất khó thay đổi.

  • Both extremes are faith-based.

Cả hai thái cực đều dựa trên niềm tin mù quáng.

  • Hopefully, one would be able to see that there is a critical element of reasoning, not faith, involved in Dhamma của Đức Phật. A reasonably moral person can grasp it. It can be followed to a very deep level if desired.

Hy vọng rằng mỗi người sẽ thấy yếu tố cốt yếu trong Dhamma của Đức Phật là lý trí, không phải niềm tin mù quáng. Một người sống tương đối đạo đức có thể hiểu được, và nếu muốn, có thể đi rất sâu.

  1. Dhamma của Đức Phật cannot be learned by reading books or this website. But they can help by providing (correct) information; if it is incorrect information, then it would be just a waste of time.

Dhamma của Đức Phật không thể học chỉ bằng sách vở hay qua trang web này. Tuy nhiên, các nguồn đó có thể hỗ trợ thông qua việc cung cấp thông tin (đúng); còn nếu sai, chỉ là lãng phí thời gian.

  • Since Buddha Dhamma is very different from any other religion or philosophy, one first needs to get that basic information from someone who really knows the fundamentals (kamma/vipāka, dasa akusala, Paṭicca Samuppāda,) and then the deeper aspects like anicca, dukkha, anatta once the basics are absorbed.

Vì Dhamma của Đức Phật rất khác với các tôn giáo hay triết học khác, trước hết cần tiếp nhận các thông tin căn bản từ người thực sự nắm vững nền tảng (kamma/vipāka, dasa akusala, Paṭicca Samuppāda, v.v.), rồi mới đến các khía cạnh sâu hơn như anicca, dukkha, anatta khi đã thấm nhuần căn bản.

  • It is not possible to even absorb the fundamentals unless one is already living a moral life. It may sound hard to believe, but a defiled mind CANNOT absorb Dhamma của Đức Phật.

Ngay cả các nền tảng cũng không thể thẩm thấu nếu chưa sống đạo đức. Nghe có vẻ khó tin, nhưng một tâm nhiễm ô KHÔNG THỂ tiếp nhận Dhamma của Đức Phật.

  • A defiled mind is like a dirty cloth, which cannot be made colorful by soaking in a dye. The cloth needs to be cleaned to absorb the dye and become bright.

Một tâm nhiễm ô giống như một tấm vải bẩn: nhúng vào thuốc nhuộm cũng không thể lên màu. Vải cần được giặt sạch thì mới thấm màu và trở nên tươi sáng.

  • Therefore, the first step is to stay away from the worst of the dasa akusala, which are also called “pañca duccarita” or “five immoral qualities”: killing, stealing, sexual misconduct, lying, and alcoholism/drug use.

Vì vậy, bước đầu tiên là tránh xa những điều tệ hại nhất trong dasa akusala, còn gọi là “pañca duccarita” hay “năm điều ác”: sát sinh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, và sử dụng rượu/bất kỳ chất gây nghiện nào.

  1. What is discussed in the Kalama Sutta is this very first step: Understanding that what one does not like to be done to oneself, another wouldn’t like either. No one likes to be hurt and to be put to misery. Any average human should be able to comprehend that simple concept.

Điều được nêu trong Kalama Sutta chính là bước đầu tiên này: Hiểu rằng điều gì ta không muốn người khác làm với mình, thì người khác cũng không muốn như thế. Không ai thích bị tổn thương hay chịu khổ. Một người bình thường cũng có thể hiểu được nguyên tắc đơn giản ấy.

  • That step needs to happen before one starts on the five precepts or moral conduct (pañca sīla) which are deeper; see “The Five Precepts – What the Buddha Meant by Them.”

Bước này cần có trước khi bắt đầu thực hành năm giới hay đời sống đạo đức (pañca sīla), vốn sâu sắc hơn; xem “The Five Precepts – What the Buddha Meant by Them.”

  • Only then can one start comprehending the deeper concepts like anicca, dukkha, anatta, the Four Noble Truths, and start on the Noble Eightfold Path; see, “What is Unique in Dhamma của Đức Phật?.”

Chỉ sau đó mới có thể bắt đầu hiểu các khái niệm sâu xa như anicca, dukkha, anatta, Tứ Thánh Đế, và bước lên Bát Chánh Đạo; xem “What is Unique in Dhamma của Đức Phật?.”

  • The ability to understand deeper concepts gets easier as one purifies one’s mind.

Khả năng hiểu các khái niệm sâu xa trở nên dễ dàng hơn khi tâm được thanh tịnh.

  1. Although this website will be a helpful resource, one should not start memorizing key concepts. First of all, it is not possible to do that. There is so much material that it is impossible to remember everything. But it is essential to read various aspects and try to “fill in gaps” in the “big picture.”

Mặc dù trang web này là nguồn tham khảo hữu ích, nhưng không nên bắt đầu bằng việc học thuộc các khái niệm chính. Trước hết, điều đó là bất khả thi vì có quá nhiều nội dung không thể nhớ hết. Tuy nhiên, điều quan trọng là nên đọc ở nhiều khía cạnh khác nhau và cố gắng “điền vào khoảng trống” trong “bức tranh toàn thể.”

  • Of course, I also do not memorize all the details. But I do know where to refer to get any needed information. It is all in the Tipiṭaka, and the late Waharaka Thero has clarified the key terms for us so that we can gradually find our own way.

Dĩ nhiên, tôi cũng không ghi nhớ mọi chi tiết. Nhưng tôi biết phải tra ở đâu khi cần thông tin. Tất cả đều có trong Tipiṭaka, và ngài Waharaka Thero quá cố đã giảng giải rõ các thuật ngữ then chốt để chúng ta có thể dần tự tìm ra con đường của mình.

  • It becomes easier to analyze a given concept as one progresses. The more one grasps about a concept (not merely memorizing the wording), the more the meanings (and how to use them in other situations) start to flow through.

Khi tiến tu, việc phân tích một khái niệm trở nên dễ dàng hơn. Càng nắm sâu một khái niệm (chứ không chỉ thuộc lòng câu chữ), ý nghĩa của nó (và cách áp dụng trong hoàn cảnh khác) càng tự nhiên hiển lộ.

  • At some point, when one starts comprehending key concepts, one will be able to see connections among different aspects and start seeing the big picture or to make that big picture even more clear. That is when a Sotāpanna Anugāmi becomes a Sotāpanna.

Đến một lúc nào đó, khi người hành bắt đầu hiểu rõ các khái niệm cốt lõi, họ sẽ thấy được mối liên hệ giữa các khía cạnh khác nhau và dần nhìn ra bức tranh toàn thể hoặc làm nó càng sáng tỏ hơn. Đó chính là khi một Sotāpanna Anugāmi trở thành Sotāpanna.

More information with references to suttā at: “Samādhi, Jhāna (Dhyāna), Magga Phala.”

Tham khảo thêm thông tin cùng các trích dẫn suttā tại: “Samādhi, Jhāna (Dhyāna), Magga Phala.”

An in-depth analysis is in “Elephant in the Room 2 – Jhāna and Kasiṇa.” This series of posts is the latest on jhāna.

Phân tích chi tiết hơn nằm trong mục “Elephant in the Room 2 – Jhāna and Kasiṇa.” Đây là loạt bài viết mới nhất về jhāna