How Do We See? – Role of the Gandhabba / Chúng ta “nhìn thấy” bằng cách nào? – vai trò của gandhabba

December 22, 2020; revised December 23, 2020; April 14, 2022 (Ref. 4 added among other revisions); September 21, 2022; September 22, 2022; January 2, 2024

Ngày 22/12/2020; sửa ngày 23/12/2020; 14/4/2022 (bổ sung Tài liệu tham khảo 4 cùng các sửa đổi khác); 21/9/2022; 22/9/2022; 2/1/2024

The question “How do we see?” remains unanswered by science. The short post by the National Eye Institute, “WebLink: nei.nih.gov: How the Eyes Work,” concludes: “These electrical signals travel from the retina through the optic nerve to the brain. Then the brain turns the signals into the images you see.” That does not explain the important part, the EXPERIENCE.

Câu hỏi “Chúng ta ‘nhìn thấy’ bằng cách nào?” vẫn chưa được khoa học giải đáp trọn vẹn. Bài viết ngắn của Viện Mắt Quốc gia Hoa Kỳ, WebLink: nei.nih.gov: How the Eyes Work,”  kết luận: “Các tín hiệu điện này đi từ võng mạc qua thần kinh thị giác lên não. Rồi não biến các tín hiệu thành hình ảnh bạn nhìn thấy.” Nhưng điều đó không giải thích phần quan trọng: TRẢI NGHIỆM.

How Do We See?

Chúng ta “nhìn thấy” bằng cách nào?

  1. Let us systematically see what happens when we “see” a tree. Please don’t just read through, but stop and think about each point.

Hãy xem một cách có hệ thống điều gì xảy ra khi chúng ta “nhìn thấy” một cái cây. Xin đừng chỉ lướt đọc, mà hãy dừng lại suy ngẫm ở từng điểm.Top of Form

  • Light reflected off the tree falls on our eyes, forming an image of that tree on the retina. As you can imagine, that image is tiny. That image then goes to the brain through a nerve as a chemical/electrical signal.

Ánh sáng phản xạ từ cái cây rơi vào mắt chúng ta, tạo nên một hình ảnh của cái cây trên võng mạc. Như bạn có thể hình dung, hình ảnh đó rất nhỏ. Hình ảnh ấy sau đó đi đến não qua dây thần kinh dưới dạng tín hiệu hóa học/điện.

  • Scientists are stuck on what happens next: How does the brain “SEE” the tree using that chemical/electrical signal?

Các nhà khoa học bế tắc ở bước tiếp theo: Làm sao não “THẤY” cái cây bằng tín hiệu hóa học/điện đó?

  • Furthermore, we “see” that tree in great detail: leaves, individual flowers, fruits, etc. How is that possible?

Hơn nữa, chúng ta “thấy” cái cây rất chi tiết: lá, từng bông hoa, quả, v.v. Sao có thể được?

  • The images that land on the back of the eyes are TINY.

Những hình ảnh rơi vào mặt sau của mắt là RẤT NHỎ.

  • Someone who has thought a lot about this issue is Jeff Hawkins, who is actively engaged in artificial intelligence (AI). In his book, “On Intelligence,” he discusses current scientific knowledge on vision and other sensory inputs ( 1.)

Một người suy nghĩ rất nhiều về vấn đề này là Jeff Hawkins, người hoạt động tích cực trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI). Trong cuốn “On Intelligence,” ông bàn về kiến thức khoa học hiện nay liên quan đến thị giác và các đầu vào giác quan khác (Tài liệu Tham khảo 1).

Jeff Hawkins’s Book “On Intelligence”

Sách “On Intelligence” của Jeff Hawkins

  1. Starting on p. 55 of his book, Hawkins discusses how the image that falls on the back of the eye gets to the brain: “But let’s take a closer look. Visual information from the outside world is sent to your brain via a million fibers in your optic nerve. .”.

Bắt đầu từ trang 55 của sách, Hawkins bàn về cách hình ảnh rơi vào mặt sau của mắt đi tới não: “Nhưng hãy nhìn kỹ hơn. Thông tin thị giác từ thế giới bên ngoài được gửi tới não bạn qua một triệu sợi trong dây thần kinh thị giác. .”.

  • “You can visualize these inputs as a bundle of electrical wires or a bundle of optical fibers..” he writes, “The inputs to the brain are like those fibers, but they are called axons, and they carry neural signals called “action potentials” or “spikes,” which are partly chemical and partly electrical..”.

Ông viết: “Bạn có thể hình dung các dữ liệu đầu vào này như một bó dây điện hoặc một bó sợi quang.. Các dữ liệu đầu vào vào não cũng giống những sợi đó, nhưng chúng được gọi là sợi trục, và chúng mang các tín hiệu thần kinh gọi là ‘điện thế hoạt động’ hay ‘xung,’ vừa mang tính hóa học vừa mang tính điện..”.

  • As discussed in that book, visual signals and all sensory inputs (sounds, taste, smell, and body touch) to the brain are similar. You hear a sound, see the light, and feel pressure, but there isn’t any fundamental difference among these neural signals inside your brain. An action potential is an action potential.

Như sách bàn luận, các tín hiệu thị giác và mọi dữ liệu đầu vào giác quan (âm thanh, vị nếm, mùi, xúc chạm cơ thể) vào não là tương tự nhau. Bạn nghe âm thanh, thấy ánh sáng, cảm thấy áp lực, nhưng không có khác biệt cơ bản giữa các tín hiệu thần kinh này bên trong não. Một điện thế hoạt động vẫn là một điện thế hoạt động.

  • Scientists have not figured out how the brain distinguishes those different types of signals. Moreover, they have no idea how the mind “sees the light” or an image of that tree. Same for the other senses.

Các nhà khoa học vẫn chưa hiểu được não phân biệt các loại tín hiệu khác nhau ấy như thế nào. Hơn nữa, họ không biết tâm “thấy ánh sáng” hay hình ảnh cái cây bằng cách nào. Các giác quan khác cũng vậy.

  • They will never figure that out because it is NOT the brain that “SEES.” It is the “hadaya vatthu” (seat of the mind”) on the “mental body” (gandhabba) that feels the “seeing sensation.” Of course, “gandhabba” is an “energy body” trapped inside the physical body. It can come out sometimes, especially during heart operations (Google “Near-Death Experiences.”)

Họ sẽ không bao giờ giải được vì không phải NÃO “THẤY.” Chính “hadaya vatthu” (chỗ ngụ/sở y của tâm) trên “thân tâm” (gandhabba) cảm thọ “cảm giác thấy.” Tất nhiên, “gandhabba” là một “thân năng lượng” bị giam trong thân vật lý. Đôi khi nó có thể thoát ra, nhất là trong các ca mổ tim (hãy tìm kiếm trên Google từ khóa “Trải nghiệm cận tử”).

How Are Electrical/Chemical Signals Sensed or Experienced?

Các Tín hiệu Điện/Hóa Được cảm nhận hay Trải nghiệm Bằng cách nào?

  1. To quote more from that book (p. 56): “Your perceptions and knowledge about the world are built from these patterns. There is no light inside your head. It is dark in there. There is no sound entering your brain either; it is quiet inside. The brain is the only part of your body that has no senses. A surgeon could stick a finger into your brain, and you would not feel it. All the information that enters your mind comes in as spatial and temporal patterns on the axons.”

Trích thêm từ sách (trang 56): “Tri giác và tri thức của bạn về thế giới được xây dựng từ những kiểu này. Không có ánh sáng bên trong đầu bạn. Trong đó là bóng tối. Cũng không có âm thanh nào đi vào não; bên trong là yên tĩnh. Não là phần duy nhất của cơ thể không có cảm giác. Một bác sĩ phẫu thuật có thể chọc ngón tay vào não bạn và bạn sẽ không cảm thấy gì. Mọi thông tin đi vào tâm trí đều đến dưới dạng các mẫu không–thời gian trên các sợi trục.”

  • It is a mystery to science how the mind differentiates those chemical and electrical signals from the brain as vision, sound, taste, smell, and touch.

Đối với khoa học, việc tâm phân biệt các tín hiệu hóa học và điện từ não thành thị giác, âm thanh, vị, mùi và xúc chạm là một điều bí ẩn.

  • For example, how do “pictures” materialize from those chemical and electrical signals? How does another set of signals lead to the sensation of sound?

Chẳng hạn, “hình ảnh” hiện hữu từ các tín hiệu hóa–điện ấy bằng cách nào? Làm sao một tập tín hiệu khác dẫn đến cảm giác nghe?

  • These are kammic effects that are not amenable to our minds. How kamma vipāka leads to various effects (including sight, hearing, etc.) is one of the four things that are unthinkable/incomprehensible to us and only comprehensible to a Buddha: “WebLink: suttacentral: Acinteyya Sutta (AN 4.77).”

Đây là những hiệu ứng thuộc về kamma vốn vượt ngoài khả năng hiểu biết của chúng ta. Cách kamma vipāka đưa tới các hiệu ứng khác nhau (bao gồm thấy, nghe, v.v.) là một trong bốn điều bất khả tư nghì/khó hiểu đối với chúng ta và chỉ một vị Phật mới thấu triệt: “WebLink: suttacentral: Acinteyya Sutta (AN 4.77).”

All Existing Scientific Theories Are Speculations

Mọi Lý Thuyết Khoa Học Hiện Có Chỉ Là Suy Đoán

  1. Scientists are trying to solve this puzzle by looking for answers in the brain. They have come to the end of the line here.

Các nhà khoa học đang cố giải câu đố này bằng cách tìm lời giải trong não. Ở đây, họ đã đi đến đường cùng.

  • Jeff Hawkins wrote that book in 2004. He posted the video in 2 (which discusses the brain) in 2006. He and many other scientists have done much work since that time. Yet they have made NO PROGRESS on the vital issue of “how those sensory events are EXPERIENCED.”

Jeff Hawkins viết cuốn sách đó năm 2004. Ông đăng video ở Tài liệu tham khảo 2 (bàn về não) năm 2006. Từ đó đến nay ông và nhiều nhà khoa học khác đã làm rất nhiều. Thế nhưng họ KHÔNG TIẾN TRIỂN gì về vấn đề cốt yếu: “những sự kiện giác quan ấy được TRẢI NGHIỆM như thế nào.”

  • There are, of course, many THEORIES on that connection. For example, some have suggested that consciousness (EXPERIENCE) arises in brain nerve cells; see 3. However, plants also have microtubules. But plants, of course, cannot think.

Dĩ nhiên có nhiều GIẢ THUYẾT về mối liên kết đó. Chẳng hạn, có người đề xuất ý thức (TRẢI NGHIỆM) phát sinh trong các tế bào thần kinh não; xem Tài liệu Tham khảo 3. Tuy nhiên, thực vật cũng có vi ống. Nhưng dĩ nhiên, cây cối không thể tư duy.

  • No matter how much they try, scientists WILL NOT be able to find a way to say that mental phenomena can arise in inert matter.

Dù cố gắng đến đâu, các nhà khoa học cũng SẼ KHÔNG thể tìm được cách nói rằng các hiện tượng tâm có thể sinh ra từ vật chất vô tri.

  • Before discussing Buddha’s description, we review relevant findings from recent scientific studies.

Trước khi bàn mô tả của Đức Phật, ta điểm lại một số phát hiện liên quan từ các nghiên cứu khoa học gần đây.

Science Will Never be Able to Figure Out How We See

Khoa Học Sẽ Không Bao Giờ Giải Thích Được Ta “Nhìn Thấy” Bằng Cách Nào

  1. Even though eyes (and the brain) play significant roles in vision, actual “seeing” does not happen at either place.

Dù mắt (và não) đóng vai trò quan trọng trong thị giác, sự “thấy” thật sự không xảy ra ở bất kỳ chỗ nào trong hai nơi ấy.

  • Vision (and all other sensory EXPERIENCES) happen in the “mental body,” which the Buddha called “gandhabba” or “manomaya kāya” in Pāli.

Thị giác (và mọi TRẢI NGHIỆM giác quan khác) diễn ra nơi “thân tâm,” Đức Phật gọi là “gandhabba” hay “manomaya kāya” trong tiếng Pāli.

  • Thanks to the internet, an abundance of evidence is emerging of situations where people were able to while their physical bodies were temporarily inoperative, i.e., while they were “medically unconscious.” The following video is just one example given by a physician who is now actively pursuing such “Out-of- Body Experiences” (OBE), also known as near-death experiences (NDE) in the medical field.

Nhờ internet, đang xuất hiện rất nhiều bằng chứng về những trường hợp con người có thể… trong khi thân thể vật chất tạm thời không hoạt động, tức đang “hôn mê y khoa.” Video sau chỉ là một ví dụ do một bác sĩ—hiện tích cực nghiên cứu các “Trải nghiệm ngoài thân” (OBE), còn gọi là trải nghiệm cận tử (NDE) trong y khoa—đưa ra.

WebLink: youtube: Are near-death experiences real? Here’s what science has to say. | Dr. Bruce Greyson for Big Think

  • More accounts of OBE/NDE are discussed in, for example, “Near-Death Experiences (NDE): Brain Is Not the Mind.” Type “OBE” or “NDE” in the “Search box” on the top right to locate other posts.

Nhiều tường thuật OBE/NDE khác được bàn trong, chẳng hạn, “Near-Death Experiences (NDE): Brain Is Not the Mind.” Gõ “OBE” hoặc “NDE” vào “Hộp Tìm kiếm” ở góc phải trên để tìm các bài liên quan.

  • The manomaya kāya (mental body) is the “building block” formed by kammic It enters a woman’s womb and merges with a fertilized egg (zygote). That is when conception occurs. For details, see “Buddhist Explanations of Conception, Abortion, and Contraception.”

Manomaya kāya (thân tâm) là “khối cấu phần” do nghiệp lực tạo. Nó đi vào tử cung người mẹ và hòa nhập với trứng đã thụ tinh (hợp tử). Khi ấy thụ thai xảy ra. Chi tiết xem “Buddhist Explanations of Conception, Abortion, and Contraception.”

  • Once that “seed of life” takes hold in a womb, it grows into a baby by absorbing food from the mother. Once outside the womb, that baby grows by eating food.

Khi “hạt giống sự sống” đó bám được trong tử cung, nó lớn thành thai nhi bằng cách hấp thụ dinh dưỡng từ mẹ. Ra ngoài bụng mẹ, em bé tiếp tục lớn bằng cách ăn uống.

  • That is much like an oak seed growing into a mighty oak tree by absorbing food from the soil.

Điều đó rất giống hạt sồi lớn thành cây sồi vĩ đại bằng cách hút dinh dưỡng từ đất.

Tiny Oak Seed Has the Blueprint for an Oak Tree

Hạt Sồi Nhỏ Mang “Bản Thiết Kế” Của Cây Sồi

  1. A tiny oak seed has the blueprint for the giant oak tree. That seed extracts necessary “materials” from the soil and “builds” that tree! Think about how complex that process is, i.e., oak seed giving rise to an oak tree!

Một hạt sồi nhỏ chứa “bản thiết kế” cho cây sồi khổng lồ. Hạt ấy rút các “vật liệu” cần thiết từ đất và “xây” nên cái cây! Hãy nghĩ xem tiến trình đó phức tạp đến mức nào—từ hạt sồi thành cây sồi!

WebLink: youtube: ?Oak Tree from ?Acorn (50 Days Time-Lapse)

  • The video does not show the latter stages of growing into a giant oak tree over many years.

Video không trình bày các giai đoạn sau—khi nó lớn thành cây sồi khổng lồ qua nhiều năm.

  • As we can see, all necessary “materials for the tree” come from the soil. The seed only has the blueprint for the tree!

Như ta thấy, mọi “vật liệu cần cho cây” đến từ đất. Hạt chỉ có bản thiết kế của cây mà thôi!

Gandhabba Has the “Blueprint” or the “Master Plan” for a Human Body

Gandhabba Mang “Bản Thiết Kế” hay “Tổng Đồ” Cho Thân Người

  1. A baby’s growth inside a womb (and then outside the womb) is not different from a seed growing into a tree. The gandhabba (created by kammic energy) has the “blueprint” for the physical body.

Sự lớn lên của thai nhi trong bụng (và sau đó ngoài bụng) không khác mấy với hạt lớn thành cây. Gandhabba (do năng lượng kamma tạo) mang “bản thiết kế” cho thân vật lý.

  • The zygote (formed by an egg from the mother and sperm from the father) is not different from a seed.

Hợp tử (hình thành từ trứng của mẹ và tinh trùng của cha) không khác gì một hạt giống.

  • The MAJOR difference is that a human can THINK, and a tree cannot.

KHÁC BIỆT LỚN là con người có thể SUY NGHĨ, còn cây thì không.

  • The THINKING part in a human comes from the gandhabba! We discussed these details in the posts “Buddhist Explanations of Conception, Abortion, and Contraception” and “Cloning and Gandhabba.”

Phần SUY NGHĨ nơi con người đến từ gandhabba! Ta đã bàn chi tiết trong các bài “Buddhist Explanations of Conception, Abortion, and Contraception” và “Cloning and Gandhabba.”

Nếu muốn lược hai bài ấy, bạn có thể đọc bản Pāli và tiếng Anh của “WebLink: suttacentral: Mahātaṇhāsaṅkhaya Sutta (MN 38)” Xem Tài liệu Tham khảo 4 để biết trích dẫn.

  • Let us discuss another piece of evidence from recent scientific findings.

Giờ ta sẽ bàn thêm một bằng chứng khác từ các phát hiện khoa học gần đây.

Vision Is Not Continuous

Thị Giác Không Liên Tục

  1. Vision or “seeing” appears to us as continuous. We see people moving around, vehicles moving, animals running around, etc. However, “seeing” happens due to a series of “snapshots” our physical eyes take. Those chemical and electrical signals mentioned above come in packets of about 10-millisecond duration.

Thị giác hay “sự nhìn thấy” dường như liên tục đối với chúng ta. Ta thấy người đi lại, xe cộ di chuyển, thú vật chạy… Tuy nhiên, “thấy” diễn ra nhờ một chuỗi “ảnh chụp nhanh” mà mắt vật chất ghi nhận. Những tín hiệu hóa–điện nói trên đi vào theo các gói dài khoảng 10 mili-giây.

  • As an example, let us take the case of seeing a tree. The eyes send a series of “data packets” (chemical and electrical signals per #2, #3 above) to the brain. It is NOT a continuous stream of data that arrives via the optic nerve in the brain. The signal comes in “packets.” Similar “data packets” come in from the other four physical senses. They are processed (in parallel) by the brain.

Lấy ví dụ ta nhìn một cái cây. Mắt gửi một chuỗi “gói dữ liệu” (tín hiệu hóa–điện như ở #2, #3) lên não. Đó KHÔNG phải là một dòng dữ liệu liên tục đi qua thần kinh thị giác. Tín hiệu đến theo “gói.” Bốn giác quan vật chất còn lại cũng đưa vào những “gói dữ liệu” tương tự. Não xử lý chúng (song song).

  • Recent scientific studies show that a human needs at least 10-20 milliseconds (1000 milliseconds = 1 second) to look at the picture to recognize it. Similarly, a “sound packet” of about 30 milliseconds can be detected and identified. Thus, the brain processes sensory data in packets of about 10-30 milliseconds duration.

Các nghiên cứu khoa học gần đây cho thấy con người cần tối thiểu 10–20 mili-giây (1000 mili-giây = 1 giây) nhìn vào một hình để nhận ra nó. Tương tự, một “gói âm thanh” khoảng 30 mili-giây có thể được phát hiện và nhận dạng. Vậy nên, não xử lý dữ liệu giác quan theo các gói dài cỡ 10–30 mili-giây.Top of Form

Bottom of Form

 

  • Some of those processes may happen in parallel in different brain regions. Further details in “Vision Is a Series of “Snapshots” – Movie Analogy.” It is essential to read this post if one needs to understand Buddha’s explanation fully.

Một số tiến trình trong đó có thể diễn ra song song ở các vùng não khác nhau. Chi tiết thêm trong bài “Vision Is a Series of “Snapshots” – Movie Analogy.” Bài này rất quan trọng nếu muốn hiểu trọn vẹn lời giải thích của Đức Phật.

  • However, scientists have no idea how those “data packets” lead to seeing, hearing, etc. (actual sensory experiences)!

Tuy nhiên, các nhà khoa học không biết các “gói dữ liệu” ấy bằng cách nào dẫn đến thấy, nghe, v.v. (tức các trải nghiệm giác quan thực sự)!

  • Now we can start discussing Buddha’s explanation.

Giờ chúng ta có thể bắt đầu bàn lời giải thích của Đức Phật.

Sense Experience Happens in the “Mental Body” (Gandhabba)

Trải Nghiệm Giác Quan Diễn Ra Trong “Thân Tâm” (Gandhabba)

  1. Actual “seeing” (and hearing, smelling, etc.) goes on at the hadaya vatthu located in the gandhabbā or the mental body. That is the critical point.

Sự “thấy” thực sự (và nghe, ngửi, v.v.) diễn ra tại hadaya-vatthu nằm trong gandhabba, tức thân tâm. Đó là điểm mấu chốt.

  • In the case of “seeing a tree,” the brain processes the data received from the eyes to a level that scientists CAN NOT probe. They are reduced (or “broken down”) to the suddhaṭṭhaka level below the elementary particle level reached by scientists. At that stage, that signal gets transmitted through the mental body of the gandhabba to the hadaya vatthu (seat of the mind.) That is where the sensory experience takes place!

Trong trường hợp “nhìn một cái cây,” não xử lý dữ liệu nhận từ mắt đến một mức độ mà khoa học HIỆN KHÔNG thể thăm dò. Chúng được giảm (hay “bẻ gãy”) đến mức suddhaṭṭhaka—thấp hơn mức hạt cơ bản mà khoa học đạt tới. Ở giai đoạn đó, tín hiệu được truyền qua thân tâm (gandhabba) đến hadaya-vatthu (chỗ ngụ/sở y của tâm). Chính tại đó trải nghiệm giác quan xảy ra!

  • As discussed in #7, the brain takes about 10-30 milliseconds to PROCESS data from each sense door. For example, when watching a movie, the brain must work non-stop to analyze visual and sound data for the movie’s duration. That strains the brain, so watching more than one movie at a time is impossible without a headache.

Như đã bàn ở #7, não mất khoảng 10–30 mili-giây để XỬ LÝ dữ liệu từ mỗi cửa giác quan. Chẳng hạn khi xem phim, não phải hoạt động liên tục để phân tích dữ liệu hình và tiếng suốt thời lượng phim. Điều đó “căng” não, nên xem nhiều hơn một bộ phim cùng lúc là bất khả nếu không muốn đau đầu.

  • The brain consumes about 25% of the energy intake for the whole body!

Não tiêu thụ khoảng 25% tổng năng lượng đưa vào cho cả cơ thể!

  • Such details could not be transmitted in the Tipiṭaka. Furthermore, during Buddha’s days, people knew nothing about the brain. The Buddha could not provide this kind of detail at that time. We will discuss that in the next post.

Những chi tiết như vậy không thể truyền đạt trong Tipiṭaka. Hơn nữa, vào thời Đức Phật, người ta không biết gì về não. Khi ấy Ngài không thể trình bày loại chi tiết này. Chúng ta sẽ bàn tiếp ở bài sau.

Science Will Never be Able to Create “Artificial Life” or “Artificial Intelligence”

Khoa Học Sẽ Không Bao Giờ Tạo Được “Sự Sống Nhân Tạo” Hay “Trí Tuệ Nhân Tạo”

  1. That is also why science will NEVER be able to succeed in AI (Artificial Intelligence.) Note that AI differs from making efficient robots, which are purely mechanical. They can’t THINK!

Đó cũng là lý do khoa học sẽ KHÔNG BAO GIỜ thành công về AI (Trí tuệ Nhân tạo). Lưu ý: AI khác với việc chế tạo robot hiệu suất cao, chúng thuần cơ khí. Chúng KHÔNG THỂ SUY NGHĨ!

  • Note that “artificial insemination” is not creating a new life. Scientists use DNA from humans (or animals) to form a zygote. That is not any different from a zygote produced in a womb. See “Cloning and Gandhabba.”

Cũng cần lưu ý: “thụ tinh nhân tạo” không phải tạo ra một sự sống mới. Các nhà khoa học dùng DNA của người (hay động vật) để tạo hợp tử—không khác gì hợp tử hình thành trong tử cung. Xem “Cloning and Gandhabba.”

  • The bottom line is the following: Without a human gandhabba, sensory experience is not possible. The physical body is just a shell.

Cốt lõi là: Không có gandhabba của con người, trải nghiệm giác quan không thể xảy ra. Thân vật lý chỉ là một cái vỏ.

  • That gandhabba can be created ONLY by kammic energy, based on a previous strong kamma (deed.) The laws of kamma work automatically. It is a natural process, like an oak seed giving rise to an oak tree.

Gandhabba CHỈ được tạo bởi năng lượng kamma, dựa trên một kamma mạnh trước đó. Luật kamma vận hành tự động. Đó là tiến trình tự nhiên, như hạt sồi sinh ra cây sồi.

The difference Between a “Live Human” and a “Dead Body” Is Gandhabba

Khác Biệt Giữa “Người Sống” và “Xác Chết” Chính Là Gandhabba

  1. The gandhabbā is like a delicate mesh (or an “energy field”) overlapping the physical body, with the hadaya vatthu located close to the physical heart. That is what gives life to the physical body.

Gandhabba như một lưới mịn (hay một “trường năng lượng”) chồng lấp lên thân vật lý, với hadaya-vatthu nằm gần quả tim vật lý. Chính nó trao sự sống cho thân vật lý.

  • At the physical body’s death, fine gandhabbā comes out of the physical body like a ghost. It is so fine that we cannot see it. But we all know that a body can be alive for one second and become inert (like a piece of wood) at death.

Khi thân vật lý chết, gandhabba vi tế rời khỏi thân như một bóng ma. Nó vi tế đến mức ta không thấy được. Nhưng ai cũng biết: một thân thể có thể còn sống ở giây này và trở nên trơ (như khúc gỗ) ngay lúc chết.

  • Have you touched a dead body (human or animal)? Touching it, you can immediately sense the difference between a dead body and a live person/animal.

Bạn đã chạm vào xác chết (người hay thú) bao giờ chưa? Chỉ cần chạm vào, bạn lập tức cảm nhận được khác biệt giữa xác chết và cơ thể người/động vật còn sống.

  • At death, the body starts to get cold as soon as the gandhabba comes out permanently from that body. The “life force” is no longer there! That life force is the gandhabba or the “mental body”!

Khi chết, thân bắt đầu lạnh ngay khi gandhabba rời khỏi vĩnh viễn. “Sức sống” không còn nữa! Sức sống ấy chính là gandhabba, tức “thân tâm”!

Transfer of Data from the Brain to Pasāda Rūpa/Hadaya Vatthu

Truyền Dữ Liệu từ Não đến Các Pasāda Rūpa/Hadaya-Vatthu

  1. Another critical point is that in the “energy body” of the gandhabbā, there are five “pasāda rūpa” located around the hadaya vatthu: cakkhu, sota, ghāna, jivhā, and kāya, that correspond to seeing, hearing, smelling, tasting, and touch. Those “sensing units” overlap the physical heart located far from the brain. Scientists will never be able to solve the problem just by analyzing brain processes!

Một điểm then chốt khác: trong “thân năng lượng” của gandhabbā có năm pasāda-rūpa quanh hadaya-vatthu: cakkhu, sota, ghāna, jivhā, kāya, tương ứng thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc. Các “đơn vị cảm thụ” này chồng lấp vùng tim vật lý (ở xa não). Các nhà khoa học sẽ không bao giờ giải được vấn đề nếu chỉ phân tích tiến trình của não!

  • We have discussed related essential concepts in the sub-section, “Brain and the Gandhabba.” As I remind you frequently, understanding these concepts takes a real effort. With this post, we are going back to continue that discussion.

Chúng ta đã bàn các khái niệm cốt lõi liên quan trong tiểu mục “Brain and the Gandhabba.” Như tôi vẫn nhắc, hiểu các khái niệm này cần nỗ lực thật sự. Bài viết này đưa ta trở lại để tiếp tục thảo luận đó.

  • The brain is like a sophisticated computer that analyzes those chemical and electrical signals discussed in #2 and #3 above.

Não giống một máy tính tinh vi, phân tích các tín hiệu hóa–điện đã nói ở #2 và #3 bên trên.

  • It converts those chemical/electrical signals to a form that the “hadaya vatthu” can “understand.” That is where the “magic of seeing sensation” takes place.

Não chuyển đổi các tín hiệu hóa–điện ấy sang dạng mà “hadaya-vatthu” có thể “hiểu.” Chính ở đó “phép màu của cảm giác thấy” diễn ra.

  • That transfer of “information” from the brain to pasāda rūpa around the hadaya vatthu happens in the “energy-body” of the gandhabba that overlaps the physical body.

Việc chuyển “thông tin” từ não đến các pasāda-rūpa quanh hadaya-vatthu diễn ra trong “thân năng lượng” của gandhabba chồng lấp lên thân vật lý.

Only a Buddha Can Figure Out the Complex Connection Between Mind and Matter

Chỉ có một Vị Phật mới Thấu suốt Mối liên hệ Phức tạp Giữa Tâm và Vật chất

  1. That is what the Buddha taught 2500 years ago. Until scientists accept that mind and matter are two different entities, they will not proceed too far from where they are now. Of course, I have tried to express those ideas in terms of current terminology as much as possible.

Đó là những gì Đức Phật đã dạy cách đây 2.500 năm. Chừng nào các nhà khoa học chưa chấp nhận rằng tâm và vật chất là hai thực thể khác nhau, họ sẽ không tiến xa nhiều so với hiện nay. Tất nhiên, tôi đã cố diễn đạt các ý ấy bằng thuật ngữ hiện đại hết mức có thể.

  • Someone who has studied Paṭicca Samuppāda (PS) may realize that it starts with saṅkhāra (ALL mental) generated due to avijjā. The PS cycle ends with an entity’s jāti (birth). Of course, that also entails creating a bit of “matter” (a set of suddhaṭṭhaka or “elementary particles” in Buddha Dhamma).

Ai đã học Paṭicca Samuppāda (PS) sẽ nhận ra rằng chuỗi này khởi đầu bằng saṅkhāra (TOÀN bộ là tâm) phát sinh do avijjā. Chu trình PS kết thúc bằng jāti (lần sanh) của một chúng sinh. Dĩ nhiên, điều đó cũng bao hàm sự hình thành một phần “vật chất” (một tập hợp suddhaṭṭhaka hay “hạt cơ bản” theo Dhamma của Đức Phật).

  • The ultimate realities of this world are citta, cetasika, and rūpa. Thoughts encompass citta and cetasika. They are in a separate category from rūpa. Citta and cetasika CANNOT arise out of an inert rūpa! Hadaya vatthu is not merely a suddhaṭṭhaka; it has kammic energy to give it “life.” Stop and contemplate that. That is why Abhidhamma is important.

Thực tại tối hậu của thế giới này là citta, cetasika và rūpa. Tư tưởng bao hàm citta và cetasika. Chúng thuộc phạm trù tách biệt với rūpa. Citta và cetasika KHÔNG THỂ sinh khởi từ một rūpa vô tri! Hadaya-vatthu không chỉ là một cụm suddhaṭṭhaka; nó có năng lượng kamma khiến nó “sống.” Hãy dừng lại và quán chiếu điều đó. Vì vậy Abhidhamma là quan trọng.

  • That is the origin of “matter” with “mental energy” or “kammic energy”: See “The Origin of Matter – Suddhaṭṭhaka.”

Đó là nguồn gốc của “vật chất” kèm “năng lượng tâm” hay “năng lượng kamma”: Xem “The Origin of Matter – Suddhaṭṭhaka.”

  • The “connection” between mind and matter is “defiled consciousness” (or kamma viññāṇa), and viññāṇa arises ONLY in a hadaya vatthu (seat of the mind) in a gandhabba created ONLY by kammic

“Mối nối” giữa tâm và vật chất là “thức ô nhiễm” (hay kamma-viññāṇa), và viññāṇa CHỈ sinh khởi tại hadaya-vatthu (sở y của tâm) trong một gandhabba CHỈ được tạo bởi năng lượng kamma.

  1. That is a fascinating account that is amenable to inquiring minds. It is NECESSARY to live a moral life and be willing to “listen to reason.” As the Buddha warned, not everyone can understand the profound Dhamma. It takes effort and faith (not blind faith but faith built on one’s own experiences and seeing the self-consistency of Buddha Dhamma: “Buddha Dhamma: Non-Perceivability and Self-Consistency.”)

Đó là một sự trình bày rất cuốn hút, phù hợp với những tâm trí ham học hỏi. CẦN SỐNG có giới đức và sẵn lòng “nghe theo lý lẽ.” Như Đức Phật cảnh báo, không phải ai cũng có thể hiểu Dhmma thâm sâu. Cần nỗ lực và lòng tin (không phải mê tín, mà là niềm tin xây dựng từ kinh nghiệm bản thân và thấy tính tự nhất quán của Dhamma của Đức Phật: “Buddha Dhamma: Non-Perceivability and Self-Consistency.”)

  • The deep connection between mind and matter is discussed in detail in “Brain and the Gandhabba.”

Mối liên hệ sâu xa giữa tâm và vật chất được bàn chi tiết trong “Brain and the Gandhabba.”

  • Of course, many details in this post are not available in that form in the Tipiṭaka. That holds for many of my posts on gandhabba.

Tất nhiên, nhiều chi tiết trong bài này không có trong Tipiṭaka dưới hình thức như vậy. Điều này cũng đúng với nhiều bài viết của tôi về gandhabba.

  • However, those descriptions are fully compatible with the Tipiṭaka. That is discussed in “Interpretation of the Tipiṭaka – Gandhabba Example.”

Tuy vậy, các mô tả ấy hoàn toàn tương thích với Tipiṭaka. Việc này được bàn trong “Interpretation of the Tipiṭaka – Gandhabba Example.”

References
Tài liệu tham khảo

  1. WebLink: papers.harvie.cz: Jeff Hawkins, “On Intelligence” (2004).
  2. WebLink: youtube: Jeff Hawkins: “How brain science will change computing.”
  3. WebLink: discovernagazine.com: Can Quantum Physics Explain Consciousness? One Scientist Thinks It Might.”
  4. Following is the English translation of the critical passage at Sutta Central: “Mendicants, when three things come together an embryo is conceived. (Tiṇṇaṁ kho pana, bhikkhave, sannipātā gabbhassāvakkanti hoti.)

Sau đây là bản dịch tiếng Anh của đoạn then chốt tại SuttaCentral: “Này các Tỷ-kheo, khi ba điều tụ hội thì có sự thọ thai. (Tiṇṇaṁ kho pana, bhikkhave, sannipātā gabbhassāvakkanti hoti.)

In a case where the mother and father come together, but the mother is not in the fertile part of her menstrual cycle, but the spirit being reborn is not present, and the embryo is not conceived. (Idha mātāpitaro ca sannipatitā honti, mātā ca na utunī hoti, gandhabbo ca na paccupaṭṭhito hoti, neva tāva gabbhassāvakkanti hoti.)

Trong trường hợp cha mẹ giao hợp, nhưng người mẹ không ở thời kỳ rụng trứng, nhưng hữu tình tái sanh không hiện diện, thì không có thọ thai. (Idha mātāpitaro ca sannipatitā honti, mātā ca na utunī hoti, gandhabbo ca na paccupaṭṭhito hoti, neva tāva gabbhassāvakkanti hoti.)

In a case where the mother and father come together, the mother is in the fertile part of her menstrual cycle, but the spirit being reborn is not present, and the embryo is not conceived. (Idha mātāpitaro ca sannipatitā honti, mātā ca utunī hoti, gandhabbo ca na paccupaṭṭhito hoti, neva tāva gabbhassāvakkanti hoti.)

Trong trường hợp cha mẹ giao hợp, người mẹ đang ở thời kỳ rụng trứng, nhưng hữu tình tái sanh không hiện diện, thì cũng không có thọ thai. (Idha mātāpitaro ca sannipatitā honti, mātā ca utunī hoti, gandhabbo ca na paccupaṭṭhito hoti, neva tāva gabbhassāvakkanti hoti.)

But when these three things come together—the mother and father come together, the mother is in the fertile part of her menstrual cycle, and the spirit being reborn is present—an embryo is conceived. (Yato ca kho, bhikkhave, mātāpitaro ca sannipatitā honti, mātā ca utunī hoti, gandhabbo ca paccupaṭṭhito hoti—evaṁ tiṇṇaṁ sannipātā gabbhassāvakkanti hoti.)

Nhưng khi ba điều này tụ hội—cha mẹ giao hợp, người mẹ đang thời kỳ rụng trứng, và hữu tình tái sanh hiện diện—thì có thọ thai. (Yato ca kho, bhikkhave, mātāpitaro ca sannipatitā honti, mātā ca utunī hoti, gandhabbo ca paccupaṭṭhito hoti—evaṁ tiṇṇaṁ sannipātā gabbhassāvakkanti hoti.)

    • Note that the translator has translated “gandhabbo” as “spirit.” It is not a “spirit” as a “ghost.” It is the “mental body,” or the essence of the human being born! Why don’t people ask that translator what that “spirit is”? This is why Buddha Dhamma has been hidden for all these years.

Lưu ý dịch giả đã dịch “gandhabbo” là “spirit.” Ở đây không phải “linh hồn/ma quỷ,” mà là “thân tâm” – cốt lõi của chúng sinh được sinh ra! Sao người ta không hỏi dịch giả “spirit” ấy là gì? Đây là lý do Dhamma của Đức Phật bị giấu kín bao năm qua.