July 19, 2021; revised December 11, 2022
Ngày 19/7/2021; sửa đổi ngày 11/12/2022
Anicca Nature – Connection to the First Noble Truth
Bản chất Anicca – Mối liên hệ với Sự thật Cao quý Thứ nhất
- In the previous post, we discussed inter-relationships among the “three pillars of Buddha Dhamma,” i.e., the Four Noble Truths, Tilakkhaṇa, and Paṭicca Samuppāda. If you do not recall the pronunciation of the words Paṭicca Samuppāda, Tilakkhaṇa, icca, iccha, nicca, niccha, anicca, aniccha, anatta, and anattha go back and listen to the audio file in the previous post “Noble Truths, Paṭicca Samuppāda, Tilakkhaṇa – Key Relationships.”
Trong bài trước, chúng ta đã bàn về mối quan hệ giữa “ba trụ cột của Dhamma của Đức Phật”: Tứ Diệu Đế, Tilakkhaṇa, và Paṭicca Samuppāda. Nếu bạn không nhớ cách phát âm các từ Paṭicca Samuppāda, Tilakkhaṇa, icca, iccha, nicca, niccha, anicca, aniccha, anatta, và anattha, hãy nghe lại tệp âm thanh của bài trước “Noble Truths, Paṭicca Samuppāda, Tilakkhaṇa – Key Relationships.”
- The critical verses on suffering in the First Noble Truths are, “yam pi icchaṁ na labhati tampi dukkhāṁ” and “saṁkhittena pañca upādāna khandhā dukkhā” both say that future suffering arises because of our attachment/craving (iccha) for things in this world.
Những câu quan trọng về khổ trong Sự thật Cao quý Thứ nhất là “yam pi icchaṁ na labhati tampi dukkhāṁ” và “saṁkhittena pañca upādāna khandhā dukkhā”, cả hai đều nói rằng khổ trong tương lai phát sinh do sự chấp thủ/khát khao (iccha) với các sự việc ở thế gian này.
- As we discussed, IF IT IS POSSIBLE to tailor our future to be free of the suffering that would be our liking (icca or iccha), then we can say that our world is of “nicca” or “niccha” nature, where there would be no suffering.
Như đã bàn, NẾU CÓ THỂ sắp đặt tương lai để không còn khổ và được như ý (icca hay iccha), thì có thể nói thế giới này thuộc bản chất “nicca” hay “niccha,” nơi không có khổ đau.
- The Buddha pointed out that this world is of “anicca nature,” i.e., the opposite of the “nicca nature.”
Đức Phật chỉ rõ rằng thế giới này thuộc “bản chất anicca,” tức đối nghịch với “bản chất nicca.”
- That means craving/striving for ANYTHING in this world WILL NOT lead to a future without suffering. Instead, the more attachment we have for anything in this world WILL lead to more suffering.
Điều đó có nghĩa là việc tham muốn hay theo đuổi BẤT CỨ ĐIỀU GÌ trong thế gian này SẼ KHÔNG dẫn đến tương lai không khổ. Ngược lại, càng chấp thủ nhiều bao nhiêu, khổ SẼ càng lớn bấy nhiêu.
- The fundamental reason for this is that ANY saṅkhata (rūpa, vedanā, saññā, saṅkhāra, viññāṇa) in this world is inherently subject to unexpected changes and destruction. We will discuss that in the next post.
Nguyên nhân căn bản là MỌI saṅkhata (rūpa, vedanā, saññā, saṅkhāra, viññāṇa) trong thế giới này vốn dĩ đều chịu sự biến đổi và hoại diệt ngoài sự mong đợi. Chúng ta sẽ bàn điều này chi tiết hơn trong bài kế tiếp.
- It is only in Nibbāna that there is no suffering. Therefore, it is Nibbāna that is of a nicca See #9 of the previous post.
Chỉ trong Nibbāna mới hoàn toàn không có khổ. Do đó, Nibbāna mang bản chất nicca (thường). Xem lại mục số 9 của bài trước.
- Craving/striving (icca/iccha) for ANYTHING in this world leads to suffering in two ways.
Sự ham muốn hay theo đuổi (icca/iccha) bất kỳ điều gì trong thế giới này dẫn đến khổ theo hai cách.
- When one struggles to acquire things in this world, that effort itself is suffering and results in suffering. Even if one gets it, one will lose it at death.
Khi một người cố gắng giành được những thứ trong thế gian, nỗ lực ấy tự nó đã là khổ và kết quả cũng là khổ. Dù có đạt được, người ấy vẫn sẽ mất đi khi chết.
- The second severe type of suffering is due to “bad rebirths” that will arise due to any immoral deeds done while trying to get possession of worldly things that one craves. Let us discuss that now.
Loại khổ thứ hai nghiêm trọng hơn là do “tái sinh xấu,” phát sinh từ các hành động bất thiện khi tìm cách chiếm hữu những thứ thế tục mà ta khát khao. Hãy cùng bàn về điều đó.
- (However, this craving CANNOT be removed without comprehending the “core” of Buddha’s teachings: the Four Noble Truths, Tilakkhaṇa, and Paṭicca Samuppāda.)
(Tuy nhiên, sự khát khao này KHÔNG thể được diệt trừ nếu không thấu hiểu “cốt lõi” trong giáo pháp của Đức Phật: Tứ Diệu Đế, Tilakkhaṇa và Paṭicca Samuppāda.)
Anicca Nature – Connection to Paṭicca Samuppāda
Bản chất Anicca – Mối liên hệ với Paṭicca Samuppāda
- Our efforts to “own and enjoy” things in this world ALWAYS lead to more suffering than any short period of happiness. That explanation comes via Paṭicca Samuppāda, the “third pillar” of Buddha Dhamma. We got started on that in the previous post. Let us continue that discussion.
Mọi nỗ lực của chúng ta nhằm “chiếm hữu và hưởng thụ” những điều thế gian LUÔN dẫn đến nhiều khổ hơn là niềm vui ngắn ngủi. Sự giải thích điều này nằm trong Paṭicca Samuppāda – “trụ cột thứ ba” của Dhamma của Đức Phật. Chúng ta đã bắt đầu điều đó trong bài trước, giờ hãy tiếp tục bàn luận.
- Humans do morally acceptable deeds with puñña abhisaṅkhāra and morally corrupt deeds with apuñña abhisaṅkhāra. The former leads to births in the human, Deva, and rūpāvacara Brahma realms and the latter leads to births in the apāyās.
Con người làm các việc thiện với puñña abhisaṅkhāra và làm các việc bất thiện với apuñña abhisaṅkhāra. Loại thứ nhất dẫn đến tái sinh trong các cõi người, Deva, và rūpāvacara Brahma, còn loại thứ hai dẫn đến tái sinh trong các apāyā.
- Some humans cultivate arūpa jhāna. Those involve āneñjā abhisaṅkhāra and lead to births in the arūpāvacara Brahma More on the types of puñña abhisaṅkhāra below.
Một số người tu tập arūpa jhāna. Những điều này liên quan đến āneñjā abhisaṅkhāra và dẫn đến tái sinh trong các cõi arūpāvacara Brahma. Phần sau sẽ nói thêm về các loại puñña abhisaṅkhāra.
- In the absence of a Buddha, that is all humans can do. None of those lead to a “state without suffering.” All those births end up in death. The worst aspect is that due to the craving for sensual pleasures humans frequently engage in immoral deeds with apuñña abhisaṅkhāra and end up in suffering-filled apāyās.
Khi không có một vị Phật ra đời, con người chỉ có thể làm đến mức ấy. Không điều nào trong đó đưa đến “trạng thái không khổ.” Tất cả các loại tái sinh đó đều kết thúc bằng cái chết. Điều tệ hại nhất là vì tham đắm khoái lạc giác quan, con người thường tạo hành động bất thiện với apuñña abhisaṅkhāra và rơi vào các apāyā đầy đau khổ.
- The reason becomes clear when we examine what is meant by “avijjā paccayā saṅkhārā” in the Akusala-Mūla Paṭicca Samuppāda.
Lý do trở nên rõ ràng khi ta xét ý nghĩa của cụm “avijjā paccayā saṅkhārā” trong Akusala-Mūla Paṭicca Samuppāda.
Births That End With Suffering Are Initiated by “Avijjā Paccayā Saṅkhārā”
Những Lần Tái Sinh Kết Thúc Trong Khổ Đều Bắt Đầu Từ “Avijjā Paccayā Saṅkhārā”
- WebLink: suttācentral: Paṭiccasamuppāda Vibhaṅga (Abhidhamma Vb 6), explains the term “avijjā paccayā saṅkhārā” in Akusala-Mūla Paṭicca Samuppāda (that leads to suffering) as follows: “Tattha katame avijjā paccayā saṅkhārā? Puññābhisaṅkhāro, apuññābhisaṅkhāro, āneñjābhisaṅkhāro, kāyasaṅkhāro, vacīsaṅkhāro, cittasaṅkhāro.”
Theo “WebLink: suttācentral: Paṭiccasamuppāda Vibhaṅga (Abhidhamma Vb 6),” cụm “avijjā paccayā saṅkhārā” trong Akusala-Mūla Paṭicca Samuppāda (dẫn đến khổ) được giải thích như sau: “Tattha katame avijjā paccayā saṅkhārā? Puññābhisaṅkhāro, apuññābhisaṅkhāro, āneñjābhisaṅkhāro, kāyasaṅkhāro, vacīsaṅkhāro, cittasaṅkhāro.”
Translated: “What is avijjā paccayā saṅkhārā? Apuññābhisaṅkhāra, puññābhisaṅkhāra, āneñjābhisaṅkhāra, kāyasaṅkhāra, vacīsaṅkhāra, cittasaṅkhāra.” It is quite clear that apuññābhisaṅkhāra are due to avijjā. But why are the other two said to be done due to avijjā?
Dịch: “Thế nào là avijjā paccayā saṅkhārā? Apuññābhisaṅkhāra, puññābhisaṅkhāra, āneñjābhisaṅkhāra, kāyasaṅkhāra, vacīsaṅkhāra, cittasaṅkhāra.” Rõ ràng apuññābhisaṅkhāra phát sinh do avijjā. Nhưng vì sao hai loại còn lại cũng được nói là do avijjā?
- Puññābhisaṅkhāra are, of course, moral and good deeds AND also the cultivation of rūpāvacara jhāna.
Puññābhisaṅkhāra tất nhiên bao gồm các hành thiện và công đức, cũng như sự tu tập rūpāvacara jhāna.
- Āneñjābhisaṅkhāra involve cultivating arūpāvacara jhāna.
Āneñjābhisaṅkhāra liên quan đến sự tu tập arūpāvacara jhāna.
- When a person who has NOT comprehended anicca, dukkha, or anatta engages in those two types of “good saṅkhāra,” they are still done with avijjā! That is because one has not yet grasped the dangers of remaining in the rebirth process. Thus, avijjā is the ignorance of the Four Noble Truths, Tilakkhaṇa, and Paṭicca Samuppāda.
Khi một người CHƯA hiểu thấu anicca, dukkha, hay anatta mà thực hành hai loại “saṅkhāra thiện” đó, thì vẫn là do avijjā! Bởi người ấy chưa thấy rõ hiểm nguy của việc còn luân hồi sinh tử. Vì vậy, avijjā chính là sự không biết về Tứ Diệu Đế, Tilakkhaṇa và Paṭicca Samuppāda.
- Some examples are discussed in “Vacī Saṅkhāra – Saṅkappa (Conscious Thoughts) and Vācā (Speech).” It is a good idea to read that post to understand this point.
Một số ví dụ được bàn trong “Vacī Saṅkhāra – Saṅkappa (Conscious Thoughts) and Vācā (Speech).” Nên đọc bài đó để hiểu rõ hơn điểm này.
- We can summarize the above analysis in simple words as follows.
Có thể tóm tắt phân tích trên bằng những lời đơn giản như sau.
- ANYTHING that we do without understanding the concepts of the Four Noble Truths, Tilakkhaṇa, and Paṭicca Samuppāda involves three types of saṅkhāra: apuññābhisaṅkhāra, puññābhisaṅkhāra, āneñjābhisaṅkhāra.
Bất kỳ điều gì ta làm mà không hiểu các khái niệm Tứ Diệu Đế, Tilakkhaṇa và Paṭicca Samuppāda đều liên quan đến ba loại saṅkhāra: apuññābhisaṅkhāra, puññābhisaṅkhāra, āneñjābhisaṅkhāra.
- Immoral deeds or pāpa kamma done with apuññābhisaṅkhāra lead to rebirths in the apāyās. Moral deeds or puñña kamma done with puññābhisaṅkhāra give rise to births in human, Deva, and rūpāvacara Brahma realms (good births.) Those who cultivate arūpāvacara jhāna with āneñjābhisaṅkhāra are reborn in arūpāvacara Brahma
Các hành vi bất thiện hay pāpa kamma làm với apuññābhisaṅkhāra dẫn đến tái sinh ở các apāyā. Các việc lành hay puñña kamma làm với puññābhisaṅkhāra đưa đến tái sinh ở cõi người, Deva và rūpāvacara Brahma (các lần sinh tốt). Ai tu arūpāvacara jhāna với āneñjābhisaṅkhāra thì tái sinh ở các cõi arūpāvacara Brahma.
- All those births end up in death. None of those will lead to a cessation of suffering.
Tất cả các loại tái sinh ấy đều kết thúc bằng cái chết. Không cái nào đưa đến sự chấm dứt khổ.
- That is why all those three types of saṅkhāra are done with avijjā!
Vì vậy, cả ba loại saṅkhāra ấy đều được tạo tác với avijjā!
- So, what type of saṅkhārā can lead to Nibbāna?
Vậy loại saṅkhāra nào có thể dẫn đến Nibbāna?
Difference Between Puñña Kamma and Kusala Kamma
Sự khác nhau giữa Puñña Kamma và Kusala Kamma
- Puñña kamma are “good deeds” done with puññābhisaṅkhāra with a mundane version of alobha, adosa, amoha. Those SAME DEEDS would be kusala kamma if done with the comprehension of the Four Noble Truths, Tilakkhaṇa, and Paṭicca Samuppāda.
Puñña kamma là “việc thiện” được làm với puññābhisaṅkhāra cùng các trạng thái thế tục của alobha, adosa, amoha. CÙNG NHỮNG VIỆC ẤY sẽ là kusala kamma nếu được làm với sự hiểu thấu Tứ Diệu Đế, Tilakkhaṇa và Paṭicca Samuppāda.
- While puñña kamma leads to rebirths in the “good realms,” kusala kamma leads to Nibbāna.
Puñña kamma đưa đến tái sinh trong “các cõi lành,” còn kusala kamma đưa đến Nibbāna.
- Thus, while puñña kamma are done with “avijjā paccayā saṅkhāra” in the Akusala-Mūla Paṭicca Samuppāda process, kusala kamma are done with “kusala-mūla paccayā saṅkhāra” in the kusala-mūla Paṭicca Samuppāda
Do đó, puñña kamma được tạo với “avijjā paccayā saṅkhāra” trong tiến trình Akusala-Mūla Paṭicca Samuppāda, còn kusala kamma được tạo với “kusala-mūla paccayā saṅkhāra” trong tiến trình kusala-mūla Paṭicca Samuppāda.
- For details see, “Akusala-Mūla Uppatti Paṭicca Samuppāda” and “Kusala-Mūla Paṭicca Samuppāda.”
Xem chi tiết: “Akusala-Mūla Uppatti Paṭicca Samuppāda” và “Kusala-Mūla Paṭicca Samuppāda.”
- That briefly explains the difference between puñña kamma and kusala kamma. Those who don’t understand that difference should read the post “Kilesa – Relationship To Akusala, Kusala, And Puñña Kamma.” It is critical to see the difference.
Đó là giải thích ngắn gọn về khác biệt giữa puñña kamma và kusala kamma. Ai chưa rõ nên đọc bài “Kilesa – Relationship To Akusala, Kusala, And Puñña Kamma.” Việc thấy rõ khác biệt này là thiết yếu.
Puñña Kamma Result With the Wrong View of a “Nicca Nature” [→Vipallāsa]
Kết quả của Puñña Kamma Khi Chấp Sai Về “Bản chất Nicca” [→Vipallāsa]
- This is the CRITICAL point to understand. Without a Buddha, humans have the innate idea that happiness can be attained by owning things that one likes. As a child grows, he/she strives to keep friends and “things” that he/she likes. As an adult, he/she would strive to learn skills, get a good job, marry the person of his/her choice and live a “good life.” In the absence of a Buddha, not many people would even think beyond that.
Đây là điểm THEN CHỐT cần nắm. Khi không có một Vị Phật, con người có khuynh hướng bẩm sinh cho rằng hạnh phúc đạt được bằng cách sở hữu những gì mình thích. Lúc trẻ lớn lên, họ cố giữ bạn bè và “những thứ” ưa thích. Khi trưởng thành, họ học kỹ năng, tìm việc tốt, kết hôn với người mình chọn và sống “một đời tốt.” Khi không có một Vị Phật, ít ai nghĩ vượt hơn thế.
- Some people worry about what will happen after death, especially when they get old. The world’s major religions teach that an everlasting Creator created this world and that one can “go to him” or “merge with him” at death to have a permanent existence of happiness.
Một số người lo lắng chuyện sau khi chết, nhất là khi về già. Nhiều tôn giáo lớn dạy rằng có một Đấng Sáng tạo vĩnh cửu tạo nên thế giới và con người có thể “đến với Ngài” hoặc “hợp nhất với Ngài” khi chết để được hạnh phúc vĩnh hằng.
- Of course, there is no way to prove or disprove the existence of such a Creator. One would pledge allegiance to that Creator and promise to live a moral life. But there are many problems with this hypothesis. For example, no matter how grave, any immoral deed can be forgiven by just praying!
Dĩ nhiên, không có cách chứng minh hay bác bỏ sự tồn tại của Đấng Sáng tạo ấy. Người ta có thể thề trung thành và hứa sống đạo đức. Nhưng giả thuyết này có nhiều vấn đề: chẳng hạn, dù tội nặng đến đâu cũng có thể được tha chỉ bằng cầu nguyện!
- In comparison, Buddha Dhamma is a complete worldview. It is not a faith-based religion. It is not a religion! One cannot get to Nibbāna by just praying or pledging to be a faithful follower of the Buddha. One needs to comprehend the worldview of the Buddha on how suffering arises, and then it would become clear how to be free of any future suffering. See “Is Buddha Dhamma (Buddhism) a Religion?”
So với đó, Dhamma của Đức Phật là một thế giới quan hoàn chỉnh; không phải tôn giáo dựa trên đức tin. Không thể đến Nibbāna chỉ bằng cầu nguyện hay thề làm đệ tử trung thành của Đức Phật. Cần hiểu thế giới quan của Đức Phật về cách khổ sinh khởi; rồi sẽ thấy rõ con đường thoát mọi khổ tương lai. Xem “Is Buddha Dhamma (Buddhism) a Religion?”
It Takes a Paradigm Shift to Understand the Anicca Nature
Cần Một Bước Chuyển Mô Hình Nhận Thức Để Hiểu Bản Chất Anicca
- We went off on a tangent there, but the point is that most people today fall into two categories. Atheists believe that life ends at death and one should try to “enjoy life” while it lasts. Those who belong to major religions believe in a Creator and expect that Creator will secure them a happy, permanent existence after death.
Chúng ta đã hơi đi lệch chủ đề, nhưng điểm chính yếu là hầu hết mọi người ngày nay rơi vào hai nhóm. Người vô thần tin đời chấm dứt khi chết và nên “tận hưởng cuộc sống” khi còn sống. Người theo các tôn giáo lớn tin có Đấng Sáng tạo và trông đợi Ngài bảo đảm cho họ sự tồn tại hạnh phúc, vĩnh viễn sau khi chết.Top of Form
Bottom of Form
- Thus, either way, there is a sense of a “nicca” That is why most people don’t even bother to examine the teachings of the Buddha in detail. That takes a considerable effort. Who would want to spend that much time when there is much fun to have by watching a movie, going to a party, or just having a day out with the family/friends?
Dù theo hướng nào thì cũng tồn tại một cảm nhận về “bản chất nicca”. Chính vì vậy mà phần lớn mọi người không buồn tìm hiểu sâu về giáo pháp của Đức Phật. Việc đó đòi hỏi nhiều công sức và thời gian. Ai lại muốn dành quá nhiều thời gian như thế khi còn bao nhiêu niềm vui khác — như xem phim, dự tiệc, hay đi chơi cùng gia đình và bạn bè?
- But if one makes an effort to study the profound teachings of the Buddha, one can see that it is a fully self-consistent worldview based on the Principle of Causality. It is more profound than modern science because science only deals with material phenomena. That is why science cannot make any progress on the issue of consciousness. I have discussed this in detail in the series on “Origin of Life.”
Nhưng nếu ai đó chịu khó tìm hiểu sâu xa giáo pháp của Đức Phật, họ sẽ nhận ra rằng đây là một thế giới quan hoàn toàn nhất quán, dựa trên Nguyên lý Nhân quả. Giáo pháp ấy còn sâu sắc hơn cả khoa học hiện đại, bởi vì khoa học chỉ nghiên cứu các hiện tượng vật chất. Chính vì thế, khoa học không thể tiến thêm bước nào trong việc giải thích bản chất của ý thức. Tôi đã bàn chi tiết hơn về điều này trong loạt bài “Origin of Life.”
- From the above discussion, it should be clear that translating “anicca” as “impermanence” is way off the mark! As explained, “anicca” is intrinsically connected to “icca/iccha” and “upādāna.”
Qua phần phân tích trên, ta có thể thấy rõ rằng dịch “anicca” là “vô thường” là hoàn toàn sai lệch! Như đã giải thích, “anicca” gắn liền về bản chất với “icca/iccha” và “upādāna.”
Nicca Worldview Leads to the Generation of Saṅkhāra with Avijjā!
Thế Giới Quan Nicca Dẫn Đến Sự Sinh Khởi Của Saṅkhāra Cùng Với Avijjā!
- We don’t just start acting with avijjā and initiate Paṭicca Samuppāda (PS) processes with “avijjā paccayā saṅkhāra.” Instead, PS processes start with an ārammaṇa that comes to the mind via one of the six sensory inputs (eyes, ears, nose, tongue, body, mind.)
Chúng ta không chỉ đơn thuần bắt đầu hành động với avijjā và khởi động tiến trình Paṭicca Samuppāda (PS) bằng “avijjā paccayā saṅkhāra.” Thực ra, tiến trình PS bắt đầu khi có một ārammaṇa đi vào tâm thông qua một trong sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân hoặc ý.)
- If that ārammaṇa is “mind-pleasing” we attach to it and start thinking about enjoying it more. Thus, the PS processes start at “salāyatana paccayā phasso.” For example, if we see a mind-pleasing rūpa via eyes, then it is the cakkhāyatana that is “activated” and this step is really “salāyatana paccayā samphassa (saŋ + phassa).” Of course, it is essential to read the post, “What is Saŋ? Meaning of Sansāra (or Saṁsāra).”
Nếu ārammaṇa ấy khiến tâm ưa thích, ta liền bám víu vào nó và bắt đầu nghĩ cách để tận hưởng nó nhiều hơn. Như vậy, tiến trình PS khởi đầu tại giai đoạn “salāyatana paccayā phasso.” Ví dụ, khi ta nhìn thấy một rūpa dễ chịu qua mắt, thì cakkhāyatana được “kích hoạt,” và bước này thật ra là “salāyatana paccayā samphassa (saŋ + phassa).” Tất nhiên, rất cần đọc thêm bài “What is Saŋ? Meaning of Sansāra (or Saṁsāra).”
- Immediately the mind goes through the “samphassa paccayā samphassa-jā-vedanā” step, which is usually stated as “phassa paccayā vedanā.” This “samphassa-jā-vedanā” is a MIND-MADE vedanā that arises due to attachment with liking/craving (icca/iccha.)
Ngay sau đó, tâm đi qua giai đoạn “samphassa paccayā samphassa-jā-vedanā,” thường được viết gọn là “phassa paccayā vedanā.” Loại “samphassa-jā-vedanā” này là một vedanā do tâm tạo ra, phát sinh từ sự dính mắc vào ưa thích/ham muốn (icca/iccha).
- More information in “Difference between Phassa and Samphassa.”
Xem thêm trong bài “Difference between Phassa and Samphassa.”
- The critical point here is that PS cycles start when we attach to an ārammaṇa with liking/craving (icca/iccha) based on greed, anger, and ignorance of the Four Noble Truths, Tilakkhaṇa, and Paṭicca Samuppāda.
Điểm then chốt ở đây là các chu kỳ PS khởi lên khi ta bám víu vào một ārammaṇa với sự ưa thích/ham muốn (icca/iccha), vốn bắt nguồn từ tham, sân và vô minh về Tứ Diệu Đế, Tilakkhaṇa và Paṭicca Samuppāda.
Suffering – Not Getting the Desired (and Getting the Undesired)
Khổ – Không Đạt Được Điều Mong Muốn (và Phải Chịu Điều Không Mong Muốn)
- As we have discussed many times, a passage in the “WebLink: suttācentral: Dhammacakkappavattana Suttā (SN 56.11)” is “yampicchaṁ na labhati tampi dukkhāṁ” meaning “If one does not get what one likes, that is suffering.”
Như chúng ta đã bàn nhiều lần, một đoạn trong “WebLink: suttācentral: Dhammacakkappavattana Suttā (SN 56.11)” có câu “yampicchaṁ na labhati tampi dukkhāṁ”, nghĩa là “Nếu một người không đạt được điều mình mong muốn, đó chính là khổ.”
- Even in the mundane sense, there is more to it than people perceive. For example, you work hard at your job and get a promotion. So, the outcome is a happy one. But you WORKED HARD to get there. That is “saṅkhāra-dukkha” as we discussed in “Introduction -2 – The Three Categories of Suffering.” That “saṅkhāra-dukkha” is present in ALL our activities, including breathing. We don’t feel breathing is difficult because we are used to it. An asthma patient knows how difficult it can be.
Ngay cả trong đời sống thế tục, điều này còn sâu xa hơn những gì người ta thường nghĩ. Chẳng hạn, bạn làm việc chăm chỉ và được thăng chức — kết quả có vẻ hạnh phúc. Nhưng bạn đã phải NỖ LỰC RẤT NHIỀU để đạt được điều đó. Đó chính là “saṅkhāra-dukkha,” như ta đã nói trong bài “Introduction -2 – The Three Categories of Suffering.” Loại “saṅkhāra-dukkha” ấy hiện diện trong mọi hoạt động của chúng ta, kể cả hơi thở. Ta không thấy việc hít thở khó khăn vì đã quen, nhưng một người bị hen suyễn thì biết rõ nó gian nan thế nào.
- The above succinct statement is true at a deeper level in the rebirth process, as we briefly mentioned in #3 above.
Câu nói ngắn gọn trên còn đúng ở mức độ sâu hơn trong tiến trình tái sinh, như ta đã đề cập sơ qua ở phần #3 phía trên.
- We desire to have a “good birth.” Some want to be reborn humans with good health and wealth. Others want to be born Devā to enjoy higher levels of sensual pleasures. Some cultivate jhāna so that they can be born in Brahma realms with “jhānic”
Chúng ta đều mong muốn có một “lần tái sinh tốt.” Có người muốn tái sinh làm người với sức khỏe và của cải sung túc. Có người mong sinh lên cõi Devā để hưởng thụ lạc thú cao hơn. Có người tu tập jhāna để được sinh lên các cõi Brahma, nơi có “niềm lạc do jhāna mang lại”.
- However, our future rebirths do not materialize according to our wishes (icca/iccha). The world is of “anicca”
Tuy nhiên, những lần tái sinh tương lai của ta không diễn ra theo ý muốn (icca/iccha). Thế giới này mang bản chất “anicca.”
- Anicca nature naturally — and inevitably — leads to This is stated as “yad aniccaṁ taṁ dukkhaṁ.” See “How Does Anicca Nature Lead to Dukkha?”
Bản chất anicca tự nhiên — và tất yếu — dẫn đến dukkha. Điều này được diễn tả trong câu “yad aniccaṁ taṁ dukkhaṁ.” Xem thêm bài “How Does Anicca Nature Lead to Dukkha?”
Puredhamma Twitter Account
Tài khoản Twitter của Puredhamma
- Twitter account for the website: WebLink: puredhamma (@puredhamma1): Twitter
Tài khoản Twitter của trang web: WebLink: puredhamma (@puredhamma1): Twitter
- Twitter handle: puredhamma1
Tên người dùng Twitter: puredhamma1
- Will Tweet a new or re-written post.
Sẽ đăng (Tweet) bài viết mới hoặc được chỉnh sửa lại
