Power of the Human Mind – Anāriya or Mundane Jhānā / Sức mạnh của tâm người – Anāriya hay Jhānā thuộc thế gian

Pre-2015 post; rewritten December 15, 2022; revised December 18, 2022 (#10); revised April 19, 2024

Bài viết trước năm 2015; viết lại ngày 15/12/2022; chỉnh sửa ngày 18/12/2022 (#10); chỉnh sửa ngày 19/04/2024

Anāriya (or mundane) jhāna are unnecessary to attain Nibbāna and can be a distraction if one is not careful.

Anāriya (thuộc thế gian) jhāna không cần thiết để đạt Nibbāna và có thể trở thành sự xao lãng nếu không cẩn trọng.

Introduction

Dẫn nhập

  1. I will make general statements here to explain the “big picture.” While there can be exceptions, the following statements generally hold.

Ở đây tôi sẽ nêu vài nhận định tổng quát để phác họa “bức tranh lớn.” Tuy có ngoại lệ, nhìn chung các nhận định sau là đúng.

  • Sentient beings in the 31 realms have different mental states and capabilities. The 26 realms above the human realm have better mental states with less mental and physical suffering. The four realms below the human (apāyās) have more mental and physical suffering.

Chúng sinh trong 31 cõi có các trạng thái tâm và năng lực khác nhau. Hai mươi sáu cõi ở trên cõi người có trạng thái tâm tốt hơn và ít khổ về tâm lẫn thân hơn. Bốn cõi dưới cõi người (apāyās) có khổ về tâm và thân nhiều hơn.

  • At the beginning of a world cycle or a Mahā Kappa (with a newly-formed Earth), most sentient beings are “Brahma-kāyika” They have just descended from the Ābhassara Brahma realm. However, the Brahma realms above the Ābhassara Brahma realm were not destroyed. Thus, a new world cycle starts with only the Human and the 20 Brahma realms populated. All Deva realms and the apāyās are empty at the beginning of a new world cycle!

Vào đầu một chu kỳ thế giới hay một Mahā Kappa (khi Trái Đất vừa hình thành), phần lớn chúng sinh là “Những con người Brahma-kāyika.” Họ vừa giáng từ cõi Ābhassara Brahma. Tuy nhiên, các cõi Brahma ở trên cõi Ābhassara Brahma không bị hủy diệt. Do đó, một chu kỳ thế giới mới bắt đầu chỉ với cõi Người và 20 cõi Brahma có cư dân. Tất cả các cõi Deva và các apāyā đều trống rỗng ở thời điểm bắt đầu của chu kỳ mới!

  • Over millions of years, those humans’ hidden defilements (anusaya) begin to surface. They gradually start committing immoral deeds, and their bodies transform into the dense physical bodies we have today. Like Brahmā, the “early humans” did not have sex organs.

Qua hàng triệu năm, các ô nhiễm tiềm ẩn (anusaya) của loài người dần dần trỗi dậy. Họ bắt đầu tạo các hành động bất thiện, và thân thể của họ biến đổi thành thân vật chất đặc như chúng ta ngày nay. Giống như Brahmā, những “con người sơ khai” không có cơ quan sinh dục.

  • Those aspects are summarized in the post “Buddhism and Evolution – Aggañña Sutta (DN 27).”

Những khía cạnh này được tóm lược trong bài “Buddhism and Evolution – Aggañña Sutta (DN 27).”

The “Early Humans” Branch Out into Other Realms

“Con người Sơ khai” Phân Nhánh Sang Các Cõi Khác

  1. In the newly-formed Earth, there were no plants or animals. Those evolved over hundreds of millions of years. With time, humans started engaging in immoral activities, and the physical environment (as well as their physical bodies) evolved according to that too.

Khi Trái Đất mới hình thành, chưa có thực vật hay động vật. Những loài này tiến hóa qua hàng trăm triệu năm. Theo thời gian, con người bắt đầu tạo các hành vi bất thiện, và môi trường vật lý (cũng như thân thể của họ) cũng biến đổi theo.

  • Plants appeared, and the first batch of small animals was born with opapātika That took place long after humans evolved into bodies with sex organs. Those humans who got corrupted first were reborn animals.

Thực vật xuất hiện, và nhóm động vật nhỏ đầu tiên sinh ra bằng cách sinh opapātika. Điều đó xảy ra rất lâu sau khi con người đã tiến hóa thành thân thể có cơ quan sinh dục. Những người bị ô nhiễm đầu tiên tái sinh thành loài vật.

  • The lower three apāya realms also formed over a longer time, according to the kammic energies that evolved humans deposited when they started cultivating apuñña abhisaṅkhāra. Of course, some humans cultivated puñña abhisaṅkhāra and were born in Deva

Ba cõi thấp hơn (apāya) cũng được hình thành dần dần, tùy theo năng lượng kamma mà con người tiến hóa đã tích tụ khi họ bắt đầu tạo apuñña abhisaṅkhāra. Dĩ nhiên, cũng có người hành tập puñña abhisaṅkhāra và được sinh vào các cõi Deva.

  1. The early humans had long lifespans (lifetimes.) By the time the first Buddha (Buddha Kakusanda) was born, the human lifespan had decreased to 80,000 years. That happened after a long time, probably over a billion years after the formation of the Earth.

Con người thời sơ khai có tuổi thọ rất dài. Khi vị Phật đầu tiên (Phật Kakusanda) ra đời, tuổi thọ con người đã giảm xuống còn 80.000 năm. Điều đó xảy ra sau một thời gian rất dài — có lẽ hơn một tỷ năm sau khi Trái Đất hình thành.

  • By that time, possibly the lower three realms had been populated by those humans who got “corrupted first” and engaged in immoral deeds and cultivated apuñña abhisaṅkhāra. Of course, those who engaged in moral deeds (with puñña abhisaṅkhāra) populated the Deva realms and the 16 rūpāvacara Brahma Furthermore, others cultivated āneñjābhisaṅkhāra (āneñja abhisaṅkhāra) and were reborn in the four arūpāvacara Brahma realms.

Đến lúc đó, có lẽ ba cõi thấp đã được “lấp đầy” bởi những con người bị “ô nhiễm trước tiên,” tạo hành bất thiện và tạo apuñña abhisaṅkhāra. Dĩ nhiên, những ai hành thiện (với puñña abhisaṅkhāra) thì tái sinh vào các cõi Deva và 16 cõi rūpāvacara Brahma. Hơn nữa, những người hành tập āneñjābhisaṅkhāra (āneñja abhisaṅkhāra) được sinh vào bốn cõi arūpāvacara Brahma.

  • It is good to understand how the cultivation of the three types of abhisaṅkhāra leads to rebirth in various realms: “Rebirths Take Place According to Abhisaṅkhāra.”

Điều đáng lưu ý là hiểu cách ba loại abhisaṅkhāra dẫn đến tái sinh trong các cõi khác nhau; xem “Rebirths Take Place According to Abhisaṅkhāra.”

Future Rebirths Are According to One’s Gati

Tái Sinh Tương Lai Tùy Thuộc Vào Gati Của Mỗi Người

  1. It is clear that rebirths in various existences (bhava) are according to the type of abhisaṅkhāra. A sentient being tends to cultivate a specific type of abhisaṅkhāra based on the gati (character/habits) at that time.

Rõ ràng việc tái sinh vào các cõi khác nhau (bhava) tùy thuộc vào loại abhisaṅkhāra được hành. Một hữu tình thường tu tập loại abhisaṅkhāra nhất định dựa trên gati (tính cách/thói quen) của mình vào thời điểm đó.

  • No sentient beings (below the Sotāpanna Anugāmi stage) have “fixed gati.” We all had cultivated apāya, human, Deva, and Brahma gati and were born in all those realms! That is why the Buddha said there is no fixed “soul/ātman” traversing the rebirth process.

Không có hữu tình nào (dưới tầng Sotāpanna Anugāmi) có “gati cố định”. Tất cả chúng ta từng nuôi dưỡng gati của apāya, loài người, Deva, và Brahma, và đã tái sinh trong tất cả các cõi ấy! Đó là lý do Đức Phật dạy rằng không có “linh hồn hay ātman” cố định đi qua quá trình luân hồi.

  • Only when one starts attaining various stages of Nibbāna, that one’s gati will not “fall back” from that attainment. Thus, for example, an Anāgāmi will never again be born in kāma loka because they had eliminated “kāma gati.”

Chỉ khi bắt đầu chứng các tầng Nibbāna, gati của người ấy mới không còn thoái lui khỏi mức chứng ấy. Chẳng hạn, một Anāgāmi sẽ không bao giờ tái sinh trong kāma loka vì đã đoạn trừ “kāma gati.”

  • On the other hand, those born in even the highest Brahma realms (without a magga phala) can “get back apāyagāmi gati” and be reborn in an apāya in the future. As we saw, all sentient beings were in the Ābhassara Brahma realm at the beginning of this world cycle, yet most are now in the apāyās.

Ngược lại, những ai sinh vào các cõi Brahma cao nhất (mà chưa có magga phala) vẫn có thể “trở lại apāyagāmi gati” và tái sinh vào apāya trong tương lai. Như đã thấy, ban đầu tất cả hữu tình đều ở cõi Ābhassara Brahma, nhưng nay phần lớn đã rơi vào các apāyā.

Various Types of Gati Cultivated in the Human Realm

Các Loại Gati Được Nuôi Dưỡng Trong Cõi Người

  1. The human realm is unique. It is where a sentient being can cultivate abhisaṅkhāra of all three types. The human realm is like a “training school” where people train to be reborn in different realms by cultivating specific types of abhisaṅkhāra.

Cõi người là cõi độc nhất. Đây là nơi hữu tình có thể tu tập cả ba loại abhisaṅkhāra. Cõi người giống như một “trường huấn luyện,” nơi con người rèn luyện để tái sinh vào các cõi khác nhau bằng cách hành những loại abhisaṅkhāra nhất định.

  • Animals and other sentient beings in the lowest realms do not cultivate puñña abhisaṅkhāra or āneñja abhisaṅkhāra. They are primarily like robots.

Các loài vật và các hữu tình ở những cõi thấp nhất không tu tập puñña abhisaṅkhāra hay āneñja abhisaṅkhāra. Họ chủ yếu vận hành như những robot.

  • Even those in the Deva and Brahma realms (without a magga phala) mostly spend time there enjoying their lives without accumulating significant abhisaṅkhāra of any type.

Ngay cả những người ở các cõi Deva và Brahma (chưa có magga phala) phần lớn chỉ hưởng thụ đời sống nơi đó, mà không tích lũy đáng kể bất kỳ loại abhisaṅkhāra nào.

  • Humans have the unique ability to cultivate any abhisaṅkhāra (that leads to rebirths in various realms) and also cultivate the Noble Path to Nibbāna.

Con người có năng lực độc nhất để tu tập bất kỳ loại abhisaṅkhāra nào (dẫn đến tái sinh trong các cõi khác nhau) và cũng có thể tu tập Thánh Đạo hướng đến Nibbāna.

  1. Those humans with immoral gati (at a given time) cultivate apuñña abhisaṅkhāra and are reborn in the apāyās. Others with moral gati cultivate puñña abhisaṅkhāra (puñña kamma and rūpāvacara jhāna) and are reborn in the human, Deva, and rūpāvacara Brahma Others cultivate āneñja abhisaṅkhāra and are reborn in the four arūpāvacara Brahma realms. See “Rebirths Take Place According to Abhisaṅkhāra.”

Những người có gati bất thiện (tại một thời điểm) tu tập apuñña abhisaṅkhāra và tái sinh vào các apāyā. Những người có gati thiện tu tập puñña abhisaṅkhāra (puñña kamma và rūpāvacara jhāna) và tái sinh vào cõi người, Deva và rūpāvacara Brahma. Những người khác tu tập āneñja abhisaṅkhāra và tái sinh vào bốn cõi arūpāvacara Brahma. Xem “Rebirths Take Place According to Abhisaṅkhāra.”

  • With that background, now we can discuss the cultivation of anāriya jhānā. Cultivation of anāriya jhāna does not require the knowledge of Buddha Dhamma.

Với bối cảnh đó, giờ ta có thể bàn về việc tu tập anāriya jhāna. Việc tu tập anāriya jhāna không đòi hỏi kiến thức về Dhamma của Đức Phật.

  • As we saw above, all sentient beings had to cultivate anāriya jhāna by the time Earth was destroyed (in the previous world cycle) to be born in the Ābhassara Brahma realm! That happened naturally.

Như đã thấy ở trên, đến khi Trái Đất bị hủy diệt (vào chu kỳ thế giới trước), mọi hữu tình đều phải tu tập anāriya jhāna để sinh về cõi Ābhassara Brahma! Điều đó diễn ra một cách tự nhiên.

Cultivation of “Brahma Gati” – Two ways

Tu Tập “Brahma Gati” – Hai Con Đường

  1. We are now in the human realm (in kāma loka) because we all had cultivated “kāma abhisaṅkhāra.” Those did not involve immoral actions, but we had craved “sensual pleasures.” Bhava and jāti are according to the abhisaṅkhāra cultivated via “avijjā paccayā saṅkhāra.” Again, I refer to the post “Rebirths Take Place According to Abhisaṅkhāra.”

Hiện nay chúng ta ở cõi người (thuộc kāma loka) vì tất cả từng tu tập “kāma abhisaṅkhāra.” Điều này không nhất thiết liên quan đến hành động bất thiện, nhưng chúng ta đã khởi tham ái đối với “khoái lạc giác quan.” Bhava và jāti tùy thuộc vào abhisaṅkhāra được tạo theo “avijjā paccayā saṅkhāra.” Xin dẫn lại bài “Rebirths Take Place According to Abhisaṅkhāra.”

  • Even though most of us enjoy sensual pleasures, we can also see their drawbacks. To enjoy them (especially taste, smell, and bodily contacts, including sex), a dense physical body is required. But such a physical body can and will be subjected to various illnesses, injuries, and old age issues leading to inevitable suffering.

Dẫu đa số chúng ta ưa thích khoái lạc giác quan, ta cũng thấy các hệ lụy của chúng. Để hưởng thụ (đặc biệt là vị, hương, và xúc chạm thân thể, kể cả tình dục), cần có một thân thể vật chất đặc. Nhưng thân thể như vậy chắc chắn sẽ chịu các bệnh tật, thương tổn và vấn đề tuổi già, dẫn đến khổ đau không tránh khỏi.

  • There are two ways humans transcend the human realm (without the help of a Buddha) and experience the higher mental states belonging to the rūpa loka.

Có hai con đường để con người vượt lên trên cõi người (không cần sự trợ giúp trực tiếp của một vị Phật) và trải nghiệm các trạng thái tâm cao hơn thuộc rūpa loka.

  1. First, to avoid such suffering in the human realm and with the expectation of being born in the Brahma realms, ancient yogis cultivated (anāriya) jhānā. As we know, Brahmā do not have dense bodies; they only have the manomaya kāya. They don’t need to eat to sustain those subtle “energy bodies.”

Thứ nhất, để tránh khổ ở cõi người và kỳ vọng sinh về các cõi Brahma, các yogi cổ xưa tu tập (anāriya) jhānā. Như ta biết, Brahmā không có thân đặc; họ chỉ có manomaya kāya. Họ không cần ăn để duy trì những “thân năng lượng” vi tế ấy.

  • Those ancient yogis knew they had to avoid “mind-pleasing” contacts such as tasty food, perfumes, and even seeing women. (We know that is true since only such ārammaṇa can get a mind to generate “kāma abhisaṅkhāra” via “avijjā paccayā saṅkhāra.” See “Paṭicca Samuppāda During a Lifetime” and especially the second post.)

Các yogi xưa biết rằng họ phải tránh các tiếp xúc “làm vừa lòng tâm” như đồ ăn ngon, hương thơm, thậm chí cả việc nhìn thấy phụ nữ. (Ta biết điều này đúng vì chỉ những ārammaṇa như vậy mới khiến tâm tạo “kāma abhisaṅkhāra” qua “avijjā paccayā saṅkhāra.” Xem “Paṭicca Samuppāda During a Lifetime,” đặc biệt bài thứ hai.)

  • Avoidance of “mind-pleasing sensory objects” will happen naturally toward the end of a world cycle. When the Earth starts getting hot, such mind-pleasing objects will gradually be destroyed. Human minds will be naturally released from “kāma saṅkappa,” or “thoughts of sensual pleasures.” That is the second way of getting rebirths in Brahma

Việc tránh xa “các đối tượng giác quan làm vừa lòng tâm” sẽ diễn ra tự nhiên vào cuối một chu kỳ thế giới. Khi Trái Đất bắt đầu nóng lên, những đối tượng ấy dần bị hủy hoại. Tâm con người sẽ tự nhiên thoát khỏi “kāma saṅkappa” (những tư duy về khoái lạc giác quan). Đó là con đường thứ hai dẫn đến tái sinh vào các cõi Brahma.

Mental States of Rūpāvacara Brahmā

Các Trạng Thái Tâm của Rūpāvacara Brahmā

  1. We are “bound” to this world via three types of “rāga”: kāma rāga, rūpa rāga, and arūpa rāga.

Chúng ta “bị ràng buộc” với thế giới này qua ba loại “rāga”: kāma rāga, rūpa rāga và arūpa rāga.

  • The “highest level of bondage to this world” is in the lower 11 realms where kāma rāga is dominant. Here a conscious being highly values all six sensory inputs.

“Mức ràng buộc cao nhất với thế giới này” là ở 11 cõi thấp, nơi kāma rāga chi phối. Ở đây, hữu tình xem trọng cả sáu loại đối tượng giác quan.

  • When those ancient yogis realized the drawbacks of kāma rāga, they found ways to detach their minds from kāma saṅkappa. While being isolated in deep jungles helped, that was not enough. Their minds still wanted to recall the sensory pleasures of the old days. So, they started using “kasiṇa objects” to keep their minds focused on inert objects like clay balls, fires, etc.

Khi các yogi cổ xưa thấy rõ bất lợi của kāma rāga, họ tìm cách tách tâm khỏi kāma saṅkappa. Dù ẩn cư nơi rừng sâu có ích, nhưng chưa đủ: tâm vẫn muốn hồi tưởng khoái lạc giác quan xưa. Vì vậy, họ bắt đầu dùng các đối tượng “kasiṇa” để giữ tâm tập trung trên các vật vô tri như viên đất sét, ngọn lửa, v.v.

  • The easiest of such “mundane kasiṇa meditations” was to focus the mind on the breath. That was available at all times! That is the origin of the “mundane Ānāpāna” That is not the “Buddhist Ānāpānasati meditation.” See “Elephant in the Room 3 – Ānāpānasati.”

“Thiền kasiṇa thế gian” dễ nhất là tập trung tâm trên hơi thở—thứ luôn sẵn có! Đó là nguồn gốc của “thiền Ānāpāna thế gian.” Điều này không phải “Ānāpānasati theo Phật giáo”. Xem “Elephant in the Room 3 – Ānāpānasati.”

  • Thus, those ancient yogis transcended the lowest mental states in the kāma loka by cultivating nekkhamma saṅkappa (i.e., absence of kāma saṅkappa) by focusing the mind on “neutral kasiṇa objects” to keep their minds off of kāma saṅkappa.

Như vậy, các yogi xưa vượt qua những trạng thái tâm thấp trong kāma loka bằng cách tu tập nekkhamma saṅkappa (tức vắng mặt kāma saṅkappa), tập trung tâm trên các “đối tượng kasiṇa trung tính” để giữ tâm khỏi kāma saṅkappa.

What Is a Jhāna?

Jhāna là gì?

  1. Those mental states reached via “transcending of the kāma loka” are the rūpāvacara jhāna, sensory experiences of rūpāvacara Brahmā.

Những trạng thái tâm đạt được bằng cách “vượt qua kāma loka” được gọi là rūpāvacara jhāna, tức là các trải nghiệm cảm thọ thuộc các cõi rūpāvacara Brahmā.

  • When a mind transcends the kāma loka, it gets to the mindset of rūpāvacara Brahmā. Those are the four jhānic states (the first jhāna is split into two in Abhidhamma analysis). Lower Brahma realms have lower jhānic states, and higher Brahma realms have higher jhānic

Khi tâm vượt qua kāma loka, nó đạt đến trạng thái tâm của rūpāvacara Brahmā. Đây là bốn tầng jhāna (tầng thứ nhất được chia thành hai trong phân tích Abhidhamma). Các cõi Brahma thấp tương ứng với các tầng jhāna thấp, còn các cõi cao hơn tương ứng với jhāna cao hơn.

  • From the discussion in #7, it should be clear that a mind must give up kāma saṅkappa. The second mechanism happened naturally due to “mind-pleasing things” being destroyed naturally.

Từ phần thảo luận ở mục #7, có thể thấy rõ rằng tâm phải từ bỏ kāma saṅkappa. Cơ chế thứ hai xảy ra tự nhiên do các “đối tượng làm vừa lòng tâm” bị hủy diệt theo quy luật tự nhiên.

  • But let us look into the first method used by ancient yogis to get some insights.

Tuy nhiên, hãy xem xét kỹ hơn phương pháp đầu tiên mà các yogi cổ xưa đã sử dụng để đạt được điều đó.

What Is a Jhāna Samāpatti?

Jhāna Samāpatti là gì?

  1. But when a human enters a jhāna (especially without much practice), the mind does not stay continuously in the jhāna citta It alternates between jhānic citta vīthi and pañcadvāra citta vīthi belonging to the kāma loka, i.e., kāmāvacara citta vīthi also arise intermittently. Thus, the yogi may see and hear while in a jhānic state.

Khi một người nhập jhāna (đặc biệt là khi chưa thuần thục), tâm không duy trì liên tục trong dòng jhāna citta. Nó luân phiên giữa jhānic citta vīthi và pañcadvāra citta vīthi thuộc kāma loka, tức là vẫn có kāmāvacara citta vīthi khởi lên xen kẽ. Do đó, người hành có thể vẫn thấy hoặc nghe khi đang ở trong trạng thái jhāna.

  • Initially, only 2–3 jhānā citta vīthi flow before a pañcadvāra citta vīthi comes in. As one cultivates the jhānā, there will be less and less pañcadvāra citta vīthi coming in between successive jhānic citta vīthi.

Ban đầu, chỉ có 2–3 jhāna citta vīthi nối tiếp nhau trước khi một pañcadvāra citta vīthi xen vào. Khi người hành tiếp tục tu tập jhāna, số lần xen kẽ pañcadvāra citta vīthi giữa các jhānic citta vīthi sẽ ngày càng giảm.

  • With practice, one could be experiencing jhāna citta vīthi continuously for many minutes. That means the yogi will not be aware of any sensory inputs through the five physical senses; thus, he will not see, hear, etc. During that time, the yogi is in a jhāna samāpatti.

Bằng sự tu tập, một người có thể trải nghiệm jhāna citta vīthi liên tục trong nhiều phút. Điều đó có nghĩa là người hành sẽ không còn nhận biết bất kỳ kích thích nào từ năm giác quan vật lý; tức là sẽ không thấy, không nghe, v.v. Trong thời gian ấy, người hành đang ở trong jhāna samāpatti.

  • The duration of a jhāna samāpatti can be increased to many hours with practice.

Thời gian của một jhāna samāpatti có thể được kéo dài đến hàng giờ khi có sự rèn luyện.

Arūpāvacara Samāpatti – Third and Highest Mental States in This World

Arūpāvacara Samāpatti – Trạng Thái Tâm Thứ Ba và Cao Nhất Trong Thế Giới Này

  1. In the above, we learned that overcoming kāma rāga will advance a mind to the higher mental states (rūpāvacara jhāna) enjoyed by the rūpāvacara Brahmā.

Như đã thấy ở trên, việc vượt qua kāma rāga sẽ đưa tâm đến các trạng thái tâm cao hơn (rūpāvacara jhāna) – những trạng thái mà rūpāvacara Brahmā trải nghiệm.

  • When a yogi reaches the fourth (or fifth in Abhidhamma classification), their minds become detached from the physical body. They can even come out of their physical body with their manomaya kāya and perform many “miraculous feats” like going through walls. See “Buddhahood Associated Controversies.”

Khi một yogi đạt đến tầng thứ tư (hoặc thứ năm theo phân loại Abhidhamma), tâm của họ tách khỏi thân vật lý. Họ thậm chí có thể rời khỏi thân bằng manomaya kāya và thực hiện nhiều “hiện tượng thần thông” như đi xuyên tường. Xem “Buddhahood Associated Controversies.”

  • Once getting to the highest rūpāvacara jhāna, those yogis realized they could advance to the highest mental states available in the arūpāvacara Brahma

Khi đạt đến tầng rūpāvacara jhāna cao nhất, các người hành ấy nhận ra họ có thể tiến lên những trạng thái tâm cao hơn nữa thuộc các cõi arūpāvacara Brahma.

  • Those four highest mental states in this world of 31 realms are ākāsānañcāyatana, viññāṇañcāyatana, ākiñcaññāyatana, and nevasaññānāsaññāyatana samāpatti. There are no arūpāvacara jhānic

Bốn trạng thái tâm cao nhất trong thế giới gồm 31 cõi này là ākāsānañcāyatana, viññāṇañcāyatana, ākiñcaññāyatana, và nevasaññānāsaññāyatana samāpatti. Ở đây không có các trạng thái arūpāvacara jhāna.

Even Arūpāvacara Samāpatti Will Not Stop Suffering in the Rebirth Process

Ngay Cả Arūpāvacara Samāpatti Cũng Không Thể Chấm Dứt Khổ Trong Luân Hồi Tái Sinh

  1. Before he attained Buddhahood, our Bodhisatta learned those mundane meditation techniques from two yogis: Āḷāra Kālāma and Uddaka Rāmaputta.

Trước khi chứng thành Phật quả, vị Bodhisatta của chúng ta đã học các pháp thiền thế gian ấy từ hai vị yogi: Āḷāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta.

  • But he soon realized that none of those “higher states” solve the problem of rebirth. The main reason is that those techniques (mundane kasiṇa and Ānāpāna meditations) only suppress lobha, dosa, and moha They remain hidden as anusaya and inevitably come to the surface under strong enough sensory attractions (temptations). See “Āsava, Anusaya, and Gati (Gathi).”

Nhưng ngài sớm nhận ra rằng không một “trạng thái cao” nào trong số đó có thể giải quyết được vấn đề tái sinh. Lý do chính là các phương pháp ấy (thiền kasiṇa và Ānāpāna thế gian) chỉ đè nén các ô nhiễm lobha, dosa, và moha. Chúng vẫn ẩn sâu trong tâm như anusaya và chắc chắn sẽ trỗi dậy khi gặp những hấp dẫn giác quan đủ mạnh (cám dỗ). Xem “Āsava, Anusaya, and Gati (Gathi).”

  • Even though a yogi can be reborn in a rūpāvacara realm with long lifespans or even an arūpāvacara realm with very long lifespans, they all “come back” to lower realms at the end of their long lifespans. They can and will be reborn in apāyās unless they attain a magga phala on the way to Nibbāna.

Dù một yogi có thể tái sinh vào cõi rūpāvacara với tuổi thọ rất dài, hoặc thậm chí vào cõi arūpāvacara với tuổi thọ lâu hơn nữa, thì đến cuối cùng, họ vẫn “trở lại” các cõi thấp. Họ có thể và sẽ tái sinh vào apāyā nếu chưa đạt magga phala trên con đường hướng đến Nibbāna.

  • In other words, those meditation techniques do not break the mental bonds (saṁyojana) to the world of 31 realms. See “Dasa Saṁyojana – Bonds in Rebirth Process.

Nói cách khác, các phương pháp thiền ấy không đoạn trừ được những trói buộc tâm (saṁyojana) đối với thế giới 31 cõi. Xem “Dasa Saṁyojana – Bonds in Rebirth Process.”

Summary

Tóm lược

  1. It should be clear that any anāriya rūpāvacara jhāna/samāpatti or arūpāvacara samāpatti will not solve the issue of suffering in the rebirth process. We all have attained all of them uncountable times in the past.

Rõ ràng là mọi anāriya rūpāvacara jhāna/samāpatti hoặc arūpāvacara samāpatti đều không thể giải quyết vấn đề khổ trong vòng luân hồi tái sinh. Tất cả chúng ta đã từng đạt những tầng này vô số lần trong quá khứ.

  • Suffering in this world of 31 realms ends only with the Parinibbāna of an

Khổ trong thế giới 31 cõi này chỉ chấm dứt hoàn toàn với Parinibbāna của một Arahant.