Pāṭihāriya (Supernormal Abilities) of a Buddha – Part I / Pāṭihāriya (các năng lực siêu thường) của một vị Phật – phần I

July 17, 2020; revised January 23, 2022; October 14, 2022; last revised December 9, 2024 (added #9)

Ngày 17/7/2020; sửa ngày 23/1/2022; 14/10/2022; lần sửa cuối 9/12/2024 (bổ sung mục #9)

Pāṭihāriya (prātihārya in Sanskrit and ප් රාතිහාර්ය in Sinhala) is a supernormal ability or a miracle. Several suttā in the Tipiṭaka discuss them.

Pāṭihāriya (prātihārya trong tiếng Sanskrit và ප් රාතිහාර්ය trong tiếng Sinhala) là năng lực siêu thường hay phép lạ. Nhiều suttā trong Tipiṭaka bàn về các năng lực này.

Kevaṭṭa Sutta (DN 11)

Kinh Kevaṭṭa (DN 11)

  1. I will extract a few relevant portions of the text from the English translation, “WebLink: suttacentral: To Kevaṭṭa (DN 11).” I did not choose the other English translation since it translated “pāṭihāriya” as “a demonstration” rather than a “miracle.” Anyone can do a demonstration. A pāṭihāriya can be performed only by someone with “supernormal capabilities.” As we will see below, these powers are mind-boggling!

Tôi sẽ trích một số đoạn liên quan từ bản dịch tiếng Anh “WebLink: suttacentral: To Kevaṭṭa (DN 11).”. Tôi không chọn bản dịch tiếng Anh khác vì dịch “pāṭihāriya” là “một màn trình diễn” thay vì “phép lạ”. Bất kỳ ai cũng có thể làm một màn trình diễn; còn pāṭihāriya chỉ có thể được thực hiện bởi người có “năng lực siêu thường”. Như sẽ thấy bên dưới, các năng lực này thật đáng kinh ngạc!

  • At the beginning of the sutta, Kevaṭṭa, a young householder, comes to the Buddha and says the Buddha should instruct his disciples to perform “miracles” to convince more people to embrace Buddha’s teachings. The Buddha refuses but explains three types of “miracles.”

Ngay đầu sutta, Kevaṭṭa—một cư sĩ trẻ—đến gặp Đức Phật và nói rằng Ngài nên dạy đệ tử thực hiện “phép lạ” để thuyết phục thêm người quy hướng giáo pháp. Đức Phật từ chối, nhưng giảng giải có ba loại “phép lạ”.

  • The Buddha replies: “Kevaṭṭa, there are three types of miracles I have taught, having myself understood and realized them. And what are the three? The miracle of psychic power, the miracle of telepathy, and the miracle of instruction.”

Đức Phật dạy: “Này Kevaṭṭa, có ba loại phép lạ mà Ta đã dạy, chính Ta tự chứng tri. Ba loại gì? Phép lạ của thần thông, phép lạ của tha tâm thông, và phép lạ của giáo giới.”

The Miracle of Psychic Power (Iddhi Pāṭihāriya)

Phép lạ của Thần thông (Iddhi Pāṭihāriya)

  1. “And what, Kevaṭṭa, is the miracle of psychic power (iddhi pāṭihāriya)?

“Và, này Kevaṭṭa, thế nào là phép lạ của thần thông (iddhi pāṭihāriya)?

  • Here, Kevaṭṭa, a monk wields various psychic powers: He becomes many and then becomes one again. He appears and vanishes, goes unimpeded through walls, ramparts, and mountains as if through space. He can dive in and out of the Earth as if it were water, and he walks on water without sinking as if it were Earth. Sitting cross-legged, he travels through space like a winged bird. He can touch and stroke the Sun and the moon, so mighty. He exercises mastery as far as the Brahma-world.”

Ở đây, này Kevaṭṭa, một vị sư vận dụng nhiều loại thần thông: hóa ra nhiều rồi trở lại một; hiện rồi ẩn; đi xuyên tường thành và núi non như đi trong hư không; lặn xuống rồi trồi lên khỏi mặt đất như trong nước; đi trên mặt nước không chìm như đi trên đất; ngồi kiết già bay qua hư không như chim có cánh; có thể chạm và vuốt Mặt Trời, Mặt Trăng hùng mạnh; làm chủ đến tận cõi Brahma.”

(This verse explaining supernormal abilities appears in many suttā, including DN 2, DN 10, DN 28, MN 6, MN 73, MN 77, SN 12.70, SN 16.9, SN 51.11, SN 51.17, AN 3.60, AN 3.101, AN 5.23, AN 6.2, AN 10.97)

(Bài kệ mô tả các năng lực siêu thường này xuất hiện trong nhiều suttā: DN 2, DN 10, DN 28, MN 6, MN 73, MN 77, SN 12.70, SN 16.9, SN 51.11, SN 51.17, AN 3.60, AN 3.101, AN 5.23, AN 6.2, AN 10.97)

  • Then the Buddha points out to Kevaṭṭa, that someone who has learned the “Gandhāra Charm” (“Gandhāra Trick” would be a better translation) can do some of that too. That is why the Buddha prohibited the display of such abilities. (Apparently, Gandhāra Trick can be compared to the “magic tricks” performed by magicians like David Copperfield today. However, the Gandhāra Trick seems much more powerful than any magic tricks performed today.)

Rồi Đức Phật chỉ cho Kevaṭṭa rằng người học được “Bùa Gandhāra” (dịch là “Mẹo Gandhāra” có lẽ sát hơn) cũng có thể làm được vài điều tương tự. Vì vậy, Đức Phật cấm biểu diễn những năng lực ấy. (Có vẻ “Mẹo Gandhāra” có thể so với “ảo thuật” của các nhà ảo thuật như David Copperfield ngày nay; tuy nhiên, mẹo Gandhāra dường như mạnh hơn hẳn mọi trò ảo thuật hiện tại.)

The Miracle of Telepathy (Ādesanā Pāṭihāriya)

Phép lạ của Tha tâm thông (Ādesanā Pāṭihāriya)

  1. “And what, Kevaṭṭa, is the miracle of telepathy (ādesanā pāṭihāriya)?

“Này Kevaṭṭa, thế nào là phép lạ của tha tâm thông (ādesanā pāṭihāriya)?

  • “Here, a monk reads the minds of other beings, of other people, reads their mental states, their thoughts, and ponderings, and says: ‘That is how your mind is, that is how it inclines, that is in your heart.’”

“Ở đây, một vị sư có thể đọc biết tâm người khác, biết các trạng thái tâm, tư tưởng và suy tư của họ, rồi nói rằng: ‘Tâm của ông là như vậy, xu hướng như vậy, điều ấy đang ở trong lòng ông.’”

  • Then the Buddha points out that those who have mastered the “Manika Charm” can also read other people’s minds. Therefore, that also is not impressive.

Rồi Đức Phật chỉ ra rằng những ai tinh thông “Bùa Manika” cũng có thể đọc tâm người khác, nên điều ấy cũng không ấn tượng gì.

The Miracle of Instruction (Anusāsanī Pāṭihāriya)

Phép lạ của Giáo giới (Anusāsanī Pāṭihāriya)

  1. “And what, Kevaṭṭa, is the miracle of instruction (anusāsanī pāṭihāriya)?

“Này Kevaṭṭa, thế nào là phép lạ của giáo giới (anusāsanī pāṭihāriya)?

  • “Here, Kevaṭṭa, a monk teaches in this way: ‘Reason in this way, do not reason in that way. Consider this and not that. Get rid of this habit, train yourself, and live life like that.’ This, Kevaṭṭa, is called ‘The miracle of instruction.’

“Ở đây, này Kevaṭṭa, một vị sư dạy như vầy: ‘Hãy lý luận theo cách này, chớ theo cách kia. Hãy quán xét điều này, chớ điều nọ. Hãy bỏ thói quen này, tự rèn luyện, và sống như thế.’ Này Kevaṭṭa, đó gọi là ‘phép lạ của giáo giới’.”

  • The Buddha explains the fruits of such instructions in detail by a learned bhikkhu who has learned Dhamma from the Buddha, how he learns to live a moral life and to cultivate Ariya jhāna by REMOVING defilements. Then the Buddha explains that SOME OF THEM can cultivate all those supernormal powers mentioned above.

Đức Phật giải thích chi tiết các quả của sự giáo giới do một bhikkhu học rộng nghe nhiều, học Dhamma từ Đức Phật: sống đời phạm hạnh và tu tập các Ariya jhāna  bằng cách LOẠI TRỪ nhiễm ô. Rồi Đức Phật dạy rằng MỘT SỐ trong số họ có thể tu thành các năng lực siêu thường đã nêu ở trên.

  • First, let us look at the scope and implications of the “psychic powers” (iddhi bala.) All these are performed by a purified mind.

Trước hết, hãy xét phạm vi và hàm ý của “thần lực” (iddhi bala). Tất cả những điều ấy đều do một tâm được thanh tịnh hóa thực hiện.

Psychic Powers (Iddhi Pāṭihāriya) – Unimaginable

Thần lực (Iddhi Pāṭihāriya) – Vượt ngoài Tưởng tượng

  1. Technological advances drive modern society. Scientists have studied the properties of MATTER in great detail and have used those new findings to create “innovative devices” that help us work more efficiently. For example, they can build robotic machines that can do much work that human cannot do.

Những tiến bộ công nghệ thúc đẩy xã hội hiện đại. Các nhà khoa học đã nghiên cứu rất chi tiết các tính chất của VẬT CHẤT và dùng các phát hiện mới để tạo ra những “thiết bị sáng tạo” giúp chúng ta làm việc hiệu quả hơn. Chẳng hạn, họ có thể chế tạo robot thực hiện nhiều công việc con người không làm được.

Vì vậy, thật đúng là một “phép lạ” khi Tôn giả Cūḷapanthaka hóa hiện ra một nghìn “bản thân” để làm việc quanh chùa. Khi xong việc, Ngài khiến các hóa thân ấy biến mất. Đó chính là điều được diễn tả ở mục #2 bên trên: “Ngài hóa ra nhiều rồi trở lại một.” Xem thêm thông tin về Tôn giả Cūḷapanthaka tại “WebLink: suttacentral: Cūḷapanthaka” và “WebLink: tipitaka.net: Dhammapada Verse 25 WebLink: tipitaka.net: Cūlapantaka Vatthu.”

  • Let us discuss a few more of these “miracles” to see how amazing they are.

Hãy bàn thêm vài “phép lạ” nữa để thấy chúng kỳ diệu đến mức nào.

Traveling Through the Air With Physical Body

Bay Qua Hư không Với Thân Vật lý

  1. Another modern technological advance is traveling long distances with cars, airplanes, and rockets. These became possible due to the collective efforts of thousands of scientists starting from Galileo and Newton, over 300 years ago.

Một tiến bộ công nghệ hiện đại khác là di chuyển quãng đường dài bằng ô tô, máy bay và tên lửa. Điều này trở nên khả dĩ nhờ nỗ lực chung của hàng nghìn nhà khoa học bắt đầu từ thời Galileo và Newton, hơn 300 năm trước.

  • However, as stated in the above accounts of Ven. Cūḷapanthaka, traveling through the air with one’s physical body is possible after cultivating iddhi bala. That is referred to as, “Sitting cross-legged, he travels through space like a winged bird” in #2 above.

Tuy nhiên, như đã nêu trong các ghi chép về Tôn giả Cūḷapanthaka, việc bay qua hư không với thân vật lý là khả dĩ sau khi tu thành iddhi bala. Đó chính là câu: “Ngồi kiết già, vị ấy bay qua hư không như chim có cánh” ở mục #2 bên trên.

  1. All these “psychic powers” have their basis in highly concentrated energy produced in the javana citta of the yogi. Yes. Even other yogis during the Buddha’s time had cultivated SOME of these powers via cultivating anāriya jhāna. They could, for example, travel through the air carrying their physical bodies.

Tất cả các “thần lực” này đều dựa trên năng lượng tập trung cao độ phát sinh trong javana citta của yogi. Đúng vậy. Ngay cả các yogi khác vào thời Đức Phật cũng đã tu được MỘT PHẦN những năng lực ấy qua việc tu các anāriya jhāna. Họ, chẳng hạn, có thể bay qua hư không mang theo thân vật lý.

  • As we know, javana cittā generates kammic energies that lead to future births. See “Javana of a Citta – The Root of Mental Power.”

Như ta biết, javana cittā tạo ra năng lượng kamma dẫn đến các sinh hữu tương lai. Xem “Javana of a Citta – The Root of Mental Power.”

  • The intensity or the power of javana citta can be vastly increased for those who have cultivated pāṭihāriyā Such a yogi can set up an “energy field” around his physical body, which can be controlled to move the physical body as he wishes.

Cường độ hay sức mạnh của javana citta có thể tăng vọt nơi những ai đã tu thành các năng lực pāṭihāriyā. Một người hành như vậy có thể thiết lập một “trường năng lượng” quanh thân vật lý và điều khiển nó để di chuyển thân thể theo ý muốn.

  • The video below demonstrates the basic idea of “electromagnetic levitation.” A yogi would create such an “energy field” around his body and control it to move the body.

Video dưới đây minh họa ý niệm cơ bản về “nâng bằng điện từ”. Một yogi sẽ tạo một “trường năng lượng” tương tự quanh thân và điều khiển nó để di chuyển thân.

WebLink: youtube: Electromagnetic levitation device

  • By the way, these days one can buy various “levitating things” like “levitating globes.”

Nhân tiện, ngày nay người ta còn có thể mua các “đồ vật bay lơ lửng” như “quả địa cầu lơ lửng”.

Traveling to a Star System “In an Instant” – With Manomaya Kāya

Du hành đến Một Hệ Sao “Trong Chớp Mắt” – bằng Manomaya Kāya

  1. The closest star (possibly with a set of planets) to us is four light-years away. That means if a rocket ship travels at the speed of light, it will take four years. For comparison, the distance from the Earth to our Moon would take only 1.25 SECONDS. Therefore, a rocket ship traveling at the speed of light will take only 1.25 SECONDS to arrive at the Moon! But our rocket ships take about three days to get to the Moon. Therefore, with a modern rocket ship, it would take about 800 thousand years (depending on the speed attained in interstellar space) to get to the NEAREST star.

Ngôi sao gần nhất (có thể có các hành tinh) cách chúng ta bốn năm ánh sáng. Nghĩa là nếu một con tàu bay với vận tốc ánh sáng, nó sẽ mất bốn năm. So sánh: khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trăng chỉ mất 1,25 GIÂY ở tốc độ ánh sáng; vậy một con tàu bay với tốc độ ánh sáng sẽ mất chỉ 1,25 GIÂY để đến Mặt Trăng! Nhưng tàu vũ trụ của chúng ta hiện mất khoảng ba ngày. Do đó, với tàu vũ trụ hiện đại, sẽ mất khoảng 800 nghìn năm (tùy vận tốc đạt được trong không gian liên sao) để tới ngôi sao GẦN NHẤT.

  • The capabilities of the Buddha (and some of his disciples with pāṭihāriyā powers) can be truly astounding. The Buddha could travel anywhere among the 10,000 “world systems” (dasasahassi lokadhātu). A “world-system” is a set of planets associated with a star, where one planet has life. In our “Solar system,” the Sun is the star, and life is based on Earth. See “31 Realms Associated with the Earth.”

Năng lực của Đức Phật (và một số đệ tử có pāṭihāriyā) thực sự đáng kinh ngạc. Đức Phật có thể du hành đến bất kỳ nơi nào trong 10.000 “thế giới hệ” (dasasahassi lokadhātu). Một “thế giới hệ” là một tập hợp hành tinh xoay quanh một ngôi sao, trong đó có ít nhất một hành tinh có sự sống. Trong “Thái Dương hệ” của chúng ta, Mặt Trời là ngôi sao và sự sống tồn tại trên Trái Đất. Xem “31 Realms Associated with the Earth.”

  • Therefore, it is mind-boggling even to imagine someone traveling to a star thousands of light-years away instantly. Of course, the Buddha would travel such vast distances only with his “mental body” (manomaya kāya or gandhabba.)

Vì vậy, thật khó tin ngay cả khi chỉ tưởng tượng việc ai đó có thể tức thì đi đến một ngôi sao cách xa hàng nghìn năm ánh sáng. Dĩ nhiên, Đức Phật chỉ có thể đi những khoảng cách mênh mông như vậy bằng “thân tâm” của Ngài (manomaya kāya hoặc gandhabba).

  • By the way, Brahmā from such 10,000 world-systems can visit Earth too. They have “bodies” that are equivalent to our mental bodies. They do not have dense physical bodies. Brahmā from the 10,000 world systems came to listen to the Buddha’s first discourse, Dhammacakkappavattana Sutta.

Nhân tiện, các vị Brahmā từ 10.000 thế giới hệ như vậy cũng có thể viếng thăm Trái Đất. Họ có “thân” tương đương với thân tâm của chúng ta. Họ không có thân vật chất đặc dày. Các vị Brahmā từ 10.000 thế giới hệ đã đến nghe bài pháp đầu tiên của Đức Phật, Dhammacakkappavattana Sutta.

  • Many suttā state that the Buddha would arrive in a Brahma world within the time taken for someone to straighten a bent arm, i.e., less than a second! That is how Brahmā from other world systems came to listen to Dhammacakkappavattana Sutta. “Brahma bodies” are almost equivalent to manomaya kāya of a gandhabba. (In comparison, a modern rocketship takes three days to get to the Moon.)

Nhiều suttā nêu rằng Đức Phật có thể đến một cõi Brahma trong thời gian một người duỗi thẳng cánh tay—tức là dưới một giây! Đó là cách các vị Brahmā từ những thế giới hệ khác đến để nghe Dhammacakkappavattana Sutta. “Thân Brahma” hầu như tương đương với manomaya kāya của một gandhabba. (So sánh thì tàu vũ trụ hiện đại mất ba ngày để đến Mặt Trăng.)

  • Nothing analogous to such fast travel has yet been discussed in modern physics. I suspect that this is related to the recently established “non-locality” (or “quantum entanglement”) in quantum mechanics: “Quantum Mechanics and Dhamma – Introduction.”

Chưa có điều gì tương tự về di chuyển nhanh như vậy được bàn luận trong vật lý hiện đại. Tôi cho rằng điều này có liên hệ đến “tính phi địa phương” (hay “rối lượng tử”) vừa mới được xác lập trong cơ học lượng tử: “Quantum Mechanics and Dhamma – Introduction.”

Touching the Sun

Chạm vào Mặt Trời

  1. In the “WebLink: suttacentral: Mahāsakuludāyi Sutta (MN 77)” the Buddha says:

Trong “WebLink: suttacentral: Mahāsakuludāyi Sutta (MN 77)” Đức Phật dạy:

“Furthermore, I have explained to my disciples a practice that they use to wield the many kinds of psychic power: multiplying themselves and becoming one again; appearing and disappearing; going unobstructed through a wall, a rampart, or a mountain as if through space; diving in and out of the earth as if it were water; walking on water as if it were earth; flying cross-legged through the sky like a bird; touching and stroking with the hand the sun and moon, so mighty and powerful. They control the body as far as the realm of divinity.”

“Hơn nữa, Ta đã giảng cho các đệ tử một pháp thực hành để vận dụng nhiều loại thần thông: hóa hiện nhiều thân rồi trở lại một; hiện rồi ẩn; đi xuyên tường, thành lũy hay núi non không bị ngăn ngại như đi trong hư không; lặn vào đất rồi trồi lên như đi trong nước; đi trên mặt nước như đi trên đất; ngồi kiết già bay giữa hư không như chim; chạm và vuốt Mặt Trời, Mặt Trăng bằng bàn tay—vốn hùng mạnh và oai lực. Họ làm chủ thân đến tận cõi chư thiên.”

  • In that verse, “touching and stroking with the hand the sun and moon” requires one to reach the Sun and touch it. Of course, one would do that with the manomaya kāya, made of only a few suddhaṭṭhaka, as explained above. That manomaya kāya can instantly travel to the Sun without being burned by the unimaginable heat there. As discussed in the “Buddhism and Evolution – Aggañña Sutta (DN 27),” the higher Brahma realms (where Brahmas’ “bodies” are made of only a few suddhaṭṭhaka) are not destroyed in a “loka vināsaya” (destruction of the lower realms) caused by a supernova event, which causes the heat of “seven Suns.”

Trong đoạn kệ ấy, “chạm và vuốt Mặt Trời, Mặt Trăng bằng bàn tay” là phải đến được Mặt Trời và chạm vào nó. Dĩ nhiên điều đó được thực hiện bằng manomaya kāya, được cấu tạo chỉ từ vài suddhaṭṭhaka như đã giải thích ở trên. Manomaya kāya đó có thể tức thì đến Mặt Trời mà không bị thiêu đốt bởi sức nóng không thể tưởng tượng ở đó. Như đã bàn trong “Buddhism and Evolution – Aggañña Sutta (DN 27)”, các cõi Brahma cao (nơi “thân” của Brahma chỉ gồm vài suddhaṭṭhaka) không bị hủy diệt trong một “loka vināsaya” (sự hủy diệt các cõi thấp) do một vụ siêu tân tinh gây ra, sinh ra sức nóng như “bảy Mặt Trời”.

  • Once the fundamentals are understood, such phenomena are no longer “miracles.”

Khi đã hiểu các nền tảng, những hiện tượng như vậy không còn là “phép lạ”.

Going Through Walls, Mountains, etc.

Đi xuyên Tường, Núi, v.v.

  1. Compared to “traveling through air with the physical body” discussed in #6, and #7 above, a much more complex technique comes into play when “going through walls or diving into the Earth.” I have not seen such an action attributed to anāriya yogis. In this case, one breaks down the physical body to the elementary level of suddhaṭṭhaka.

So với việc “bay qua không trung bằng thân vật lý” đã bàn ở #6 và #7 ở trên, thì một kỹ thuật phức tạp hơn nhiều được vận dụng khi “đi xuyên tường hoặc lặn vào lòng Trái đất.” Tôi chưa thấy hành động như vậy được gán cho các anāriya yogis. Trong trường hợp này, người ta phân rã thân vật lý xuống cấp độ sơ đẳng của suddhaṭṭhaka.

  • “Matter” is mostly empty space. An atom is virtually empty. This basic idea is illustrated in the first 3 minutes of the following video.

“Vật chất” phần lớn là khoảng trống. Một nguyên tử hầu như rỗng không. Ý niệm cơ bản này được minh họa trong ba phút đầu của video sau đây.

WebLink: youtube: What Are Atoms Made Of?

Solid Matter” Is Mostly Empty Space!

“Vật chất Rắn” Phần lớn là Khoảng Trống!

  1. Watching the first three minutes of the above video can give us an idea of “how empty” an atom is. As shown, an atom is more than 99.999% empty!

Xem ba phút đầu của video nói trên sẽ giúp ta hình dung một nguyên tử “rỗng” đến mức nào. Như minh họa, một nguyên tử rỗng hơn 99,999%!

  • Then why can we not go through a wall? The answer is that two atoms cannot get too close to each other due to electromagnetic forces. That is not discussed in the above video. In a solid, two atoms cannot come too close because one atom’s outer “electron cloud” will repel that of the second atom. Therefore, even a steel bar is mostly empty space.

Vậy tại sao ta không thể đi xuyên tường? Lý do là hai nguyên tử không thể tiến quá gần nhau vì lực điện từ. Điều này không được nói trong video trên. Trong vật rắn, hai nguyên tử không thể lại quá gần vì “đám mây electron” bên ngoài của nguyên tử này sẽ đẩy đám mây của nguyên tử kia. Do đó, ngay cả một thanh thép cũng phần lớn là khoảng trống.

  • However, the Buddha taught that matter could be reduced below that of electrons and protons. That is the suddhaṭṭhaka level, where no electromagnetic interactions exist (like the repulsion among electrons.) All the “material stuff” in a physical body can be reduced to an invisible suddhaṭṭhaka Scientists now know that an atom is divisible into smaller parts. The recently detected Higgs boson could be at the suddhaṭṭhaka level.

Tuy nhiên, Đức Phật dạy rằng vật chất có thể được phân rã xuống thấp hơn electron và proton—đó là mức suddhaṭṭhaka, nơi không còn tương tác điện từ (như lực đẩy giữa các electron). Toàn bộ “thành phần vật chất” của một thân thể vật lý có thể được quy giản về mức suddhaṭṭhaka vô hình. Khoa học ngày nay biết nguyên tử có thể chia nhỏ hơn nữa. Hạt Higgs mới phát hiện có thể tương ứng với mức suddhaṭṭhaka.

  • However, scientists cannot reduce bulk matter to the suddhaṭṭhaka Moreover, they cannot take an object like an apple, break it below the atomic level, and then put it all back together. But one with high-end iddhi powers can do that!

Dẫu vậy, các nhà khoa học không thể quy giản vật chất khối lượng lớn xuống mức suddhaṭṭhaka. Hơn nữa, họ không thể lấy một vật như quả táo, phá vỡ xuống dưới mức nguyên tử rồi lắp lại như cũ. Nhưng người có năng lực iddhi bậc cao có thể làm điều đó!

  • Such a yogi can reduce one’s body to the suddhaṭṭhaka level, move it to another location very quickly and then put it back together! This was discussed slightly differently in #6 through #10 in the post, “Mystical Phenomena in Buddhism?

Một người hành như vậy có thể quy giản thân mình xuống mức suddhaṭṭhaka, di chuyển nó rất nhanh đến nơi khác rồi tái cấu trúc lại! Điều này đã được bàn theo cách khác đôi chút ở các mục #6–#10 trong bài “Mystical Phenomena in Buddhism?

  • That approach of reducing the “material stuff” in a body to a form that can be transported to far destinations at high speed and then “re-assembling” back to the original form is part of science fiction these days, see “WebLink: wiki.org: teleportation.” I remember watching the famous movie “WebLink: wikipedia.org: The Fly (1986 film).” In that movie, a fly gets into the “teleportation machine” with the human, and the “re-assembly” at the other end produces a “human fly”!

Cách tiếp cận quy giản “vật chất” trong một cơ thể thành dạng có thể vận chuyển tốc độ cao đến nơi xa rồi “lắp lại” như ban đầu hiện thuộc lĩnh vực khoa học viễn tưởng—xem “WebLink: wiki.org: teleportation.” Tôi nhớ đã xem bộ phim nổi tiếng “WebLink: wikipedia.org: The Fly (1986 film).” Trong phim, một con ruồi chui vào “máy dịch chuyển tức thời” cùng con người, và khi “tái lắp” ở đầu kia đã tạo ra một “ruồi người”!

Comparison With Modern Technology

So sánh với Công nghệ Hiện đại

  1. As we can see, modern science and Buddha Dhamma take very different approaches to dealing with even material phenomena. Science is exclusively based on the study of inert matter. Buddha Dhamma can explain material properties in terms of mental phenomena. Of course, scientists are still way behind the Buddha.

Như ta thấy, khoa học hiện đại và Dhamma của Đức Phật có cách tiếp cận rất khác nhau ngay cả với các hiện tượng vật chất. Khoa học dựa thuần túy trên nghiên cứu vật chất trơ; Dhamma của Đức Phật có thể giải thích tính chất vật chất từ các hiện tượng tâm. Tất nhiên, các nhà khoa học vẫn còn ở đằng sau rất xa Đức Phật.

  • From what we discussed above, think about one comparison. While the Buddha could visit Deva and Brahma worlds within a split-second, scientists have only made it to the Moon which takes three days.

Từ những điều vừa bàn, hãy so sánh: Đức Phật có thể đến cõi Deva và Brahma trong chớp mắt, còn các nhà khoa học mới chỉ đến được Mặt Trăng—mất ba ngày.

  • The scientists are not even aware of the existence of the Deva and Brahma

Các nhà khoa học thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của các cõi Deva và Brahma.

  • Deva and Brahma realms are above the Earth. They have very little “matter,” so scientists cannot see them or their habitats. However, our rocketships can pass through their habitats without them even noticing.

Các cõi Deva và Brahma ở bên trên Trái Đất. “Vật chất” nơi đó rất ít, nên các nhà khoa học không thể thấy họ hoặc cảnh giới của họ. Tuy vậy, tàu tên lửa của chúng ta có thể bay xuyên qua cảnh giới ấy mà họ thậm chí không nhận ra.

  • The closest analogy we have is the depiction of a gandhabba in the 1990 movie “Ghost.’ See, “Ghost 1990 Movie – Good Depiction of Gandhabba Concept.” From watching that movie, we can understand why we cannot see Devā or Brahmā (or their habitats). Devā or Brahmā have “bodies” even more subtle compared to a human gandhabba.

Sự so sánh gần nhất là hình ảnh gandhabba trong bộ phim “Ghost” (1990). Xem “Ghost 1990 Movie – Good Depiction of Gandhabba Concept.” Từ bộ phim đó, ta hiểu vì sao ta không thấy Devā hay Brahmā (hoặc cảnh giới của họ). Devā hay Brahmā có “thân” vi tế hơn cả gandhabba của con người.

  • Without scientists figuring out how to implement teleportation, they could not be able to even travel to the nearest star with rocket ships. Buddha’s “mind-based” technique is based on a different paradigm.

Nếu chưa tìm ra cách hiện thực hóa dịch chuyển tức thời, các nhà khoa học thậm chí không thể đến ngôi sao gần nhất bằng tên lửa. Kỹ thuật “dựa trên tâm” của Đức Phật thuộc một mô hình khác hẳn.

Trong Sīsapāvana Sutta (SN 56.31), Đức Phật dạy rằng Ngài chỉ truyền dạy một phần rất nhỏ tri kiến của mình. Xem “WebLink: suttacentral: In a Rosewood Forest.”

There is no need to study or learn about iddhi pāṭihāriya in detail. I am providing this account to establish the following point. By controlling the mind, even a single person can get ahead of hundreds of years of scientific effort. The other two “miracles” are discussed in “Pāṭihāriya (Supernormal Abilities) of a Buddha – Part II.”

Không cần thiết phải học hay nghiên cứu chi tiết về iddhi pāṭihāriya. Tôi trình bày điều này để nhấn mạnh điểm sau: bằng việc điều phục tâm, chỉ một người cũng có thể vượt trước hàng trăm năm nỗ lực khoa học. Hai “phép lạ” còn lại được bàn trong “Pāṭihāriya (Supernormal Abilities) of a Buddha – Part II.”

  • All posts on this subsection in “Buddhahood Associated Controversies.”

Tất cả các bài viết trong tiểu mục này thuộc “Buddhahood Associated Controversies.”

Additional Resources

Tài liệu Tham khảo Thêm

  1. There is a Wikipedia article, “WebLink: wikipedia.org: Miracles of Gautama Buddha.”

Có một bài viết trên Wikipedia: “WebLink: wikipedia.org: Miracles of Gautama Buddha.”

  1. The above video is the second of a series of videos. More information on atoms in the following set of videos:

Video nói trên là video thứ hai trong một loạt video. Thông tin thêm về nguyên tử ở bộ video sau:

WebLink: youtube: What Is an Atom and How Do We Know?