August 20, 2017; revised June 8, 2020
Ngày 20/8/2017; chỉnh sửa ngày 8/6/2020
Different Meanings of Anicca
Những Ý Nghĩa Khác Nhau Của Anicca
- Anicca (pronounced “anichcha”) is a profound concept that has several meanings (impermanence is only a small part of it). We discussed one interpretation as “it is not possible to maintain anything in this world to one’s satisfaction”; see, “Anicca – Inability to Keep What We Like.”
Anicca (phát âm “anichcha”) là một khái niệm thâm sâu có nhiều tầng ý nghĩa (vô thường chỉ là phần rất nhỏ). Ta đã thảo luận một cách hiểu là “không thể duy trì bất kỳ điều gì trong thế giới này theo sự thỏa mãn của mình”; xem “Anicca – Inability to Keep What We Like.”
- Another interpretation is the following. Whatever that seems to provide lasting happiness arises and is destroyed. Anything is subjected to unpredictable changes (vipariṇāma) while it lasts. See, “Anicca – Repeated Arising/Destruction.”
Một cách hiểu khác là: bất kỳ điều gì dường như mang lại hạnh phúc lâu dài đều sinh rồi diệt. Mọi thứ đều chịu sự thay đổi không thể dự đoán (vipariṇāma) trong thời gian tồn tại. Xem “Anicca – Repeated Arising/Destruction.”
- Here we discuss another: There is nothing in this world that is valuable and can provide lasting happiness. Not only that, but more craving can only lead to more suffering.
Ở đây, ta bàn đến một nghĩa khác: không có gì trong thế giới này thật sự có giá trị hay mang lại hạnh phúc bền lâu. Không chỉ thế, càng khao khát thì càng khổ.
We Like to Get Hold of Things That We Like (Crave)
Ta Muốn Nắm Giữ Những Gì Mình Ưa Thích (Ham Muốn)
- The desire (iccā or icchā; pronounced “ichchā”) for any object depends on the value that one places for that object. If one realizes that the object does not have any significant value, then one would not have any desire for that object.
Sự ham muốn (iccā hoặc icchā; phát âm “ichchā”) đối với một vật tùy thuộc vào giá trị mà ta gán cho nó. Nếu nhận ra rằng vật đó không có giá trị thật sự, ta sẽ không còn ham muốn nó.
- One has iccā for a given object which one perceives it to be of “nicca” (pronounced “nichcha”) nature, i.e., that one thinks has value and can provide happiness.
Một người có iccā đối với một vật khi họ nhận thức rằng vật đó mang bản chất “nicca” (phát âm “nichcha”), nghĩa là cho rằng nó có giá trị và có thể mang lại hạnh phúc.
- If one realizes that a given object does not have a real value, one loses craving for that. The anicca nature means NOTHING in this world has real value. Of course, full comprehension comes only at the Arahant stage. The starting point is to see that immoral actions MUST BE avoided regarding even “seemingly high-value things.”
Nếu hiểu rằng một vật không có giá trị thật, ta sẽ mất đi ham muốn đối với nó. Bản chất anicca nghĩa là KHÔNG CÓ GÌ trong thế giới này có giá trị thật sự. Dĩ nhiên, sự hiểu biết trọn vẹn chỉ đạt được ở tầng Arahant. Bước khởi đầu là thấy rằng PHẢI tránh mọi hành động bất thiện, dù là vì những “vật tưởng như quý giá.”
The Perception of “Value” Depends on One’s Level of Understanding
Nhận Thức Về “Giá Trị” Tùy Thuộc Vào Trình Độ Hiểu Biết
- Suppose you give the following choices for a five-year-old: a giant chocolate bar or the title to a brand new house (written to his/her name so that the child will be the owner of the house).
Giả sử bạn cho một đứa trẻ năm tuổi chọn giữa: một thanh sô-cô-la khổng lồ hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu một ngôi nhà mới (ghi tên đứa trẻ làm chủ sở hữu).
- What will the child choose? Of course, the child will want chocolate, and he/she will have no idea how a piece of paper can be more valuable than tasty chocolate. Thus the child has the perception of nicca for the chocolate, i.e., that it can bring happiness whereas the happiness from the house is hard to grasp by the child.
Đứa trẻ sẽ chọn gì? Dĩ nhiên, nó sẽ chọn sô-cô-la, và hoàn toàn không hiểu vì sao một tờ giấy lại quý hơn miếng sô-cô-la ngon lành. Như vậy, đứa trẻ có nhận thức nicca đối với thanh sô-cô-la — cho rằng nó mang lại hạnh phúc, trong khi hạnh phúc từ ngôi nhà là điều nó chưa thể hiểu.
- However, when that same child grows up and becomes an adult, he/she will choose the title to the house without hesitation. By that time, he/she would have realized that a house is much more valuable than a bar of chocolate. The adult will recognize the “anicca nature” of the chocolate: it can only bring happiness for a few minutes.
Tuy nhiên, khi đứa trẻ ấy lớn lên, nó sẽ chọn giấy chủ quyền ngôi nhà không chút do dự. Lúc đó, nó hiểu rằng ngôi nhà quý hơn thanh sô-cô-la rất nhiều. Người trưởng thành sẽ nhận ra “bản chất anicca” của sô-cô-la: nó chỉ mang lại hạnh phúc trong vài phút.
- Did anyone have to explicitly tell that adult that the title to the house is much more worth than chocolate? No. One would realize that when one learns more about the world.
Có ai cần nói rõ với người lớn đó rằng giấy chủ quyền nhà có giá trị hơn sô-cô-la không? Không. Con người sẽ tự hiểu khi có thêm tri thức về thế giới.
- Just the same way, when one learns Dhamma, one will AUTOMATICALLY realize that nothing in this world has real value. But that realization comes gradually.
Cũng như thế, khi học Dhamma, ta sẽ TỰ NHIÊN nhận ra rằng không gì trong thế giới này có giá trị thật. Nhưng sự nhận ra ấy đến dần dần.
The Tendency to Do Immoral Deeds Based on Cravings
Khuynh Hướng Có Hành Vi Bất Thiện Do Tham Ái
- All immoral deeds (dasa akusala) are done because of the “value” that one places on worldly things. A child may hit another over that chocolate. An adult may be willing to lie, steal, or even kill to get possession of a house.
Mọi hành vi bất thiện (dasa akusala) đều xuất phát từ “giá trị” mà con người gán cho các vật thế gian. Một đứa trẻ có thể đánh bạn vì thanh sô-cô-la. Một người lớn có thể nói dối, trộm cắp, thậm chí giết người để chiếm hữu ngôi nhà.
- When that adult grasps the critical message of the Buddha, he/she will realize the “anicca nature” of the house too. That even craving for a house is not worth compared to the “cooling down” one can gain by getting rid of the cravings associated with the house. Of course, one does not need to get rid of the house.
Khi người lớn ấy hiểu được thông điệp cốt lõi của Đức Phật, họ sẽ nhận ra “bản chất anicca” của ngôi nhà. Ngay cả lòng ham muốn ngôi nhà cũng không đáng so với “sự mát dịu” đạt được khi diệt trừ các tham ái gắn liền với ngôi nhà. Dĩ nhiên, không cần phải vứt bỏ ngôi nhà.
- He/she would realize that collecting “valuables” like houses, cars, etc. or making a lot of money (much more than one needs) can bring only suffering at the end (and lose precious time one could have spent on learning Dhamma and making progress towards Nibbāna).
Người ấy sẽ hiểu rằng việc tích lũy “của cải” như nhà cửa, xe cộ… hoặc kiếm thật nhiều tiền (vượt quá nhu cầu) rốt cuộc chỉ đem lại khổ đau (và đánh mất thời gian quý báu có thể dành cho việc học Dhamma và tiến bước trên con đường đến Nibbāna).
Adverse Consequences of Cravings
Hậu Quả Bất Lợi Của Tham Ái
- Craving for sense objects can have adverse consequences in a wide range. At a lower level, just enjoying sense pleasures without harming others will make one bound to the kāma loka (via “paṭi icca sama uppāda” or “what one likes is what one gets”); see, “Paṭicca Samuppāda – ‘Pati+ichcha’ + ‘Sama+uppāda.’”
Tham muốn các đối tượng giác quan có thể dẫn đến nhiều hậu quả bất lợi. Ở mức thấp hơn, chỉ cần hưởng thụ khoái lạc giác quan mà không hại người khác cũng khiến ta bị trói buộc trong kāma loka (qua “paṭi icca sama uppāda” — “cái mình ưa thích là cái mình sẽ nhận lấy”); xem “Paṭicca Samuppāda – ‘Pati+ichcha’ + ‘Sama+uppāda.’”
- However, if one does immoral deeds (dasa akusala) to get such “valuables,” then one will be subjected to dukkha dukkha (direct suffering) in the apāyā in future lives; see, “Introduction -2 – The Three Categories of Suffering.” That is the worst kind of future suffering, and one would not be able to comprehend that if one does not believe in rebirth or kamma vipāka, i.e., if one has micchā diṭṭhi.
Tuy nhiên, nếu một người tạo nghiệp bất thiện (dasa akusala) để đạt được những “vật quý” ấy, thì họ sẽ chịu dukkha dukkha (khổ trực tiếp) trong các cõi apāyā ở đời sau; xem “Introduction -2 – The Three Categories of Suffering.” Đó là loại khổ đau tương lai tệ hại nhất, và người ta sẽ không thể hiểu được nếu không tin vào tái sinh hoặc kamma vipāka, tức là khi còn micchā diṭṭhi.
- Once one gets rid of micchā diṭṭhi, it will be easier to see one aspect of the anicca That is “aniccaṁ khayaṭṭhena,” which means “anicca nature leads one to the downside,” i.e., to do immoral acts and to end up experiencing unimaginable suffering (dukkha dukkha) in the apāyā.
Khi diệt trừ được micchā diṭṭhi, ta sẽ dễ dàng thấy một khía cạnh của bản chất anicca. Đó là “aniccaṁ khayaṭṭhena,” nghĩa là “bản chất anicca dẫn đến suy hoại,” tức khiến ta làm điều bất thiện và phải chịu khổ đau khôn lường (dukkha dukkha) trong các cõi apāyā.
- Thus anicca nature not only means that one cannot maintain things to one’s satisfaction in the long run but ALSO that it can lead to much suffering in the future.
Vì vậy, bản chất anicca không chỉ có nghĩa là không thể duy trì điều gì theo ý muốn lâu dài, mà CÒN có thể dẫn đến vô vàn khổ đau trong tương lai.
The Understanding Leads to the Sotāpanna Stage
Sự Hiểu Biết Dẫn Đến Tầng Sotāpanna
- One can get to the Sotāpanna stage by comprehending the above harsh consequences of anicca
Một người có thể đạt đến tầng Sotāpanna bằng cách thấu hiểu những hậu quả nghiêm trọng nêu trên của bản chất anicca.
- Buddha also said, “dukkhaṁ bhayaṭṭhena” or “one should be fearful of the dukkha nature” when describing the characteristic of At the Sotāpanna stage, one can see that not comprehending the anicca nature can lead to suffering in the apāyā. But he/she may still not realize that much suffering (even though less than in the apāyā) can also arise due to just being attached to sense pleasures, i.e., kāma rāga.
Đức Phật cũng dạy: “dukkhaṁ bhayaṭṭhena”, nghĩa là “phải biết sợ bản chất dukkha.” Ở tầng Sotāpanna, người ấy thấy rằng không hiểu được bản chất anicca sẽ dẫn đến khổ trong apāyā. Tuy nhiên, họ vẫn chưa nhận ra rằng nhiều khổ đau khác (dù nhẹ hơn apāyā) vẫn sinh ra chỉ vì chấp trước vào khoái lạc giác quan, tức kāma rāga.
- The full impact of “dukkhaṁ bhayaṭṭhena” is realized only at the Anāgāmi stage (having seen a glimpse of it at the Sakadāgāmi stage). That is when one realizes the dukkha associated with just the craving for sensual pleasures.
Tác dụng toàn phần của “dukkhaṁ bhayaṭṭhena” chỉ được nhận ra ở tầng Anāgāmi (sau khi đã thoáng thấy ở tầng Sakadāgāmi). Khi đó, người ấy thấy rõ dukkha gắn liền với chỉ riêng lòng tham khoái lạc giác quan.
- Craving for sense pleasures leads to saṅkhāra dukkha and vipariṇāma dukkha, as explained in detail in the post, “Introduction – What is Suffering?”.
Tham ái đối với khoái lạc giác quan dẫn đến saṅkhāra dukkha và vipariṇāma dukkha, được giải thích chi tiết trong “Introduction – What is Suffering?”.
- At the Sotāpanna stage, one comprehends the anicca nature at a preliminary level and grasps the dukkha dukkha. Even though one can see the truth of the other two types of dukkha (saṅkhāra dukkha and vipariṇāma dukkha), one does not “truly grasp their effects.” Those two aspects of dukkha are present in the higher realms of kāma loka (human and deva realms).
Ở tầng Sotāpanna, người ấy hiểu bản chất anicca ở mức sơ khởi và nhận ra dukkha dukkha. Dù có thể thấy được tính chân thật của hai loại dukkha khác (saṅkhāra dukkha và vipariṇāma dukkha), nhưng vẫn chưa “thật sự thấm nhuần tác động của chúng.” Hai loại dukkha này tồn tại trong các cõi cao của kāma loka (cõi người và cõi deva).
- One truly starts comprehending saṅkhāra dukkha and vipariṇāma dukkha at the Sakadāgāmi stage, and it will be completed only at the Anāgāmi That leads to further strengthening of “dukkhaṁ bhayaṭṭhena.” One can see the danger in the types of dukkha arising from attachment to sense pleasures (even without engaging in immoral acts).
Sự thấu hiểu thực sự về saṅkhāra dukkha và vipariṇāma dukkha chỉ bắt đầu ở tầng Sakadāgāmi và hoàn tất ở tầng Anāgāmi. Điều này khiến cho “dukkhaṁ bhayaṭṭhena” càng được củng cố. Khi ấy, người ấy thấy rõ hiểm họa của các loại dukkha phát sinh từ chấp thủ vào khoái lạc giác quan, dù không phạm điều bất thiện.
- Comprehending the bad consequences of sensual pleasures is much harder than seeing the dangers associated with immoral deeds. That is why a Sotāpanna is still “not free” from rebirths in kāma loka.
Nhận ra hậu quả tai hại của khoái lạc giác quan khó hơn nhiều so với việc thấy hiểm họa của hành động bất thiện. Vì vậy, Sotāpanna vẫn “chưa thoát” khỏi tái sinh trong kāma loka.
Cravings for Sense Desires Lost Only at the Anāgāmi Stage
Khát Ái Chỉ Được Diệt Trừ Hoàn Toàn Ở Tầng Anāgāmi
- By the time one gets to Anāgāmi stage, one would have removed the lower five types of bonds (orambhagiya saṁyojana) that bind one to the realms in the kāma loka; see, “Dasa Saṁyojana – Bonds in Rebirth Process.”
Khi đạt đến tầng Anāgāmi, người ấy đã đoạn trừ năm kiết sử (dây trói buộc) thấp (orambhagiya saṁyojana) trói buộc chúng sinh trong các cõi kāma loka; xem “Dasa Saṁyojana – Bonds in Rebirth Process.”
- There are five higher saṁyojana associated with higher rūpa and arūpa First one removes rūpa rāga (attachment to rūpa jhāna) and then arūpa rāga (attachment to arūpa samāpatti).
Có năm kiết sử cao hơn liên quan đến các cõi rūpa và arūpa. Trước hết là đoạn trừ rūpa rāga (chấp thủ vào rūpa jhāna), sau đó là arūpa rāga (chấp thủ vào arūpa samāpatti).
- The rūpa and arūpa realms (highest 20 realms) mostly have rūpa jhānic pleasures and arūpa samāpatti In those realms, dukkha dukkha and saṅkhāra dukkha are mostly absent, and only the vipariṇāma dukkha (death at the end) is present. One lives with jhānic pleasure until the end when one becomes helpless and could end up even in the apāyā.
Các cõi rūpa và arūpa (20 cõi cao nhất) chủ yếu có lạc của rūpa jhāna và chứng đắc arūpa samāpatti. Ở đó, dukkha dukkha và saṅkhāra dukkha hầu như không hiện hữu, chỉ còn vipariṇāma dukkha (cái chết cuối cùng). Chúng sinh ở đó hưởng lạc jhāna cho đến khi trở nên bất lực, rồi có thể rơi trở lại apāyā.
- In comprehending the Three Characteristics of nature, the critical step is in realizing that collecting “valuables” (houses, money, etc.) as an adult is as foolish as collecting candy wrappers as a child.
Khi thấu hiểu Ba Đặc Tính của tự nhiên, bước then chốt là nhận ra rằng việc tích lũy “giá trị vật chất” (nhà cửa, tiền bạc, v.v.) khi trưởng thành ngu xuẩn chẳng khác gì gom vỏ kẹo khi còn nhỏ.
- To make that step of “higher wisdom” per Buddha Dhamma, one needs first to understand the “worldview of the Buddha,” that the world is of anicca nature, i.e., CRAVING for those “valuables” only leads to suffering in the long run. “Long-run” involves not only this life but future lives.
Để đạt được bước “trí tuệ cao hơn” theo Buddha Dhamma, trước hết phải hiểu “thế giới quan của Đức Phật” rằng thế giới này mang bản chất anicca, nghĩa là THAM ÁI những “giá trị vật chất” ấy chỉ đưa đến khổ đau về lâu dài. “Lâu dài” ở đây bao gồm cả đời này và các đời tương lai.
- That is why belief in rebirth is an important requirement to even start on the mundane Path.
Vì vậy, niềm tin vào tái sinh là điều kiện quan trọng để có thể bắt đầu trên con đường thế tục hướng về Đạo.
The World is of Anicca Nature, Not Nicca Nature
Thế Giới Có Bản Chất Anicca, Không Phải Nicca
- It is an illusion to believe that ANY object in this world will have the “nicca” nature. That there are things in this world that have real, lasting value. The reality is the opposite expressed by the word “anicca.” One meaning of “anicca” is that there is nothing in this world of value that can bring lasting happiness.
Thật là ảo tưởng khi tin rằng BẤT KỲ vật gì trong thế giới này đều mang bản chất “nicca,” tức có giá trị thực và bền lâu. Sự thật hoàn toàn ngược lại, được biểu đạt bằng từ “anicca.” Một nghĩa của “anicca” là: không có gì trong thế giới này có giá trị thật sự để mang lại hạnh phúc bền lâu.
- However, it is challenging for one to comprehend this “anicca nature” unless one believes in the laws of kammā. That one’s actions will have consequences. A natural extension of the laws of kammā is the validity of the rebirth process.
Tuy nhiên, thật khó để hiểu rõ “bản chất anicca” nếu không tin vào luật kammā — rằng hành động của mình sẽ tạo ra hậu quả. Một hệ quả tự nhiên của luật kammā là tính hợp lệ của tiến trình tái sinh.
- Many actions committed in this life do not bring their results in this life. But they will appear in future lives. Therefore, the laws of kammā necessarily REQUIRE the rebirth process.
Nhiều hành động tạo ra trong đời này không mang lại kết quả ngay trong đời này, mà sẽ trổ sanh ở các đời sau. Do đó, luật kammā tất yếu ĐÒI HỎI sự tồn tại của tiến trình tái sinh.
- One has more iccā (or more attachment) for an object that one perceives to be of high value. Then one would have the perception of “nicca” nature for that object. He/she thinks that it can provide happiness.
Khi một người xem một vật là có giá trị cao, họ sẽ có nhiều iccā (hay nhiều bám chấp hơn) đối với vật đó. Khi ấy, họ hình thành nhận thức về bản chất “nicca” nơi vật ấy — nghĩ rằng nó có thể mang lại hạnh phúc.
- But the reality is that either that object loses its value OR one dies, making any perceived value zero at the end. One of those two outcomes is inevitable.
Nhưng thực tế là hoặc vật ấy sẽ mất giá trị, hoặc người ấy sẽ chết, khiến mọi giá trị tưởng có trở nên bằng không. Một trong hai kết cục ấy là điều tất yếu.
It is Impossible to Comprehend Anicca Nature Without Belief in Rebirth Process
Không Thể Hiểu Được Bản Chất Anicca Nếu Không Tin Vào Tiến Trình Tái Sinh
- If one does not believe in the rebirth process, then one could be compelled to do immoral deeds to get possession of valuable objects. That is a hidden defilement (anusaya) that may not manifest unless the temptation is high.
Nếu không tin vào tiến trình tái sinh, người ta có thể bị thôi thúc làm điều bất thiện để chiếm hữu vật quý. Đó là ô nhiễm tiềm ẩn (anusaya), thường không lộ rõ trừ khi sự cám dỗ đủ mạnh.
- For example, one may not steal anything for a lifetime but could be tempted to take a bribe of a million dollars.
Ví dụ, một người có thể không ăn cắp gì suốt đời nhưng có thể bị cám dỗ khi có ai hối lộ một triệu đô-la.
- Or, a drug addict could say, “I am just going to enjoy inhaling drugs until I die from it,” thinking that there will not be any consequences after the physical body dies.
Hoặc một con nghiện có thể nói: “Tôi sẽ cứ hít ma túy cho đến khi chết vì nó,” vì nghĩ rằng sau khi thân xác chết sẽ không có hậu quả gì.
- However, one’s outlook on such things will dramatically change if one can see the reality of the rebirth process. Most people just believe what “science says” and do not even bother to look at the ever-increasing evidence for the rebirth process. See “Evidence for Rebirth.”
Tuy nhiên, quan điểm ấy sẽ thay đổi hoàn toàn nếu một người thấy được thực tại của tiến trình tái sinh. Đa số người chỉ tin những gì “khoa học nói,” mà chẳng buồn xem xét vô số bằng chứng ngày càng rõ về sự tái sinh. Xem “Evidence for Rebirth.”
- Science agrees that causes lead to corresponding effects. Any action has a reaction. However, since science does not know much about how the mind works, it is unable to provide answers to issues that involve the mind. Kammā and kamma vipāka are causes and corresponding effects.
Khoa học đồng ý rằng mọi nguyên nhân đều tạo ra kết quả tương ứng. Mỗi hành động đều có phản ứng. Tuy nhiên, vì khoa học chưa hiểu rõ cách tâm vận hành, nên không thể giải đáp những vấn đề thuộc về tâm. Kammā và kamma vipāka chính là nhân và quả tương ứng của chúng.
Greed Comes from the Perception of Nicca Nature
Tham Sinh Ra Từ Nhận Thức Sai Về Bản Chất Nicca
- Lobha (abhijjhā) is the greed generated in a mind that puts a “very high value” for an object. One is willing to do immoral acts to get possession.
Lobha (abhijjhā) là lòng tham khởi sinh trong tâm khi con người gán “giá trị quá cao” cho một vật. Khi ấy, họ sẵn sàng làm điều bất thiện để có được vật đó.
- One with just kāma rāga (desire for sensual pleasures) has the desire to enjoy sensual objects but would not hurt others to get them. Most “moral people” belong to this category UNLESS the temptation becomes high. A Sotāpanna has kāma rāga but will not succumb to ANY temptation to do apāyagāmi
Người chỉ có kāma rāga (ham muốn đối với khoái lạc giác quan) thì ham hưởng đối tượng giác quan nhưng không làm hại người khác để đạt được nó. Phần lớn những người “sống đạo đức” thuộc nhóm này, TRỪ KHI bị cám dỗ quá mạnh. Một Sotāpanna vẫn có kāma rāga nhưng sẽ không bao giờ bị cám dỗ đến mức có những hành vi dẫn đến apāyā.
- A Sakadāgāmi has lost the desire to “own” such sensual objects but still likes to enjoy them.
Một Sakadāgāmi đã mất lòng ham muốn “sở hữu” các đối tượng giác quan, nhưng vẫn thích hưởng thụ chúng.
- Any desire for sensual pleasures goes away at the Anāgāmi
Mọi ham muốn khoái lạc giác quan sẽ hoàn toàn diệt trừ ở tầng Anāgāmi.
- In other words, one starts losing the value that one places for “mind-pleasing” objects as one progresses to higher stages of Nibbāna.
Nói cách khác, khi tiến dần lên các tầng cao hơn của Nibbāna, người ta sẽ bắt đầu mất dần cảm nhận về “giá trị” đối với những đối tượng làm vừa ý tâm.
- But the critical point to understand is that one LOSES such desires AUTOMATICALLY. One does not need to, and one CANNOT, lose such desires by sheer will power. One needs to “see” the dangers of such cravings by developing the “dhamma eye,” or paññā (wisdom) by learning and contemplating on the Tilakkhaṇa.
Nhưng điều cốt yếu cần hiểu là các ham muốn ấy mất đi MỘT CÁCH TỰ NHIÊN. Không cần — và cũng KHÔNG THỂ — diệt trừ chúng chỉ bằng ý chí. Cần phải “thấy” hiểm họa của ham muốn bằng cách phát triển “con mắt dhamma,” tức paññā (trí tuệ), thông qua việc học và quán chiếu Tilakkhaṇa.
- Even if one forcefully keeps such desires SUPPRESSED, such desires will just stay dormant (remain as anusaya). Those anusaya WILL resurface later in this life or future lives. They can only be removed by comprehending Tilakkhaṇa. See, “Āsava, Anusaya, and Gati (Gathi).”
Ngay cả khi cố gắng ĐÈ NÉN những ham muốn ấy, chúng cũng chỉ tạm thời ngủ yên (dưới dạng anusaya). Những anusaya ấy SẼ trỗi dậy trở lại trong đời này hoặc đời sau. Chúng chỉ có thể bị diệt tận bằng cách thấu hiểu Tilakkhaṇa. Xem “Āsava, Anusaya, and Gati (Gathi).”
- With gradual cleansing of the mind, one will start seeing the worthlessness of worldly things.
khi tâm được gột sạch dần, người ta sẽ bắt đầu thấy rõ sự vô giá trị của mọi thứ trong thế gian.
- Also, see, “Anicca, Dukkha, Anatta – According to Some Key Suttā.”
Xem thêm “Anicca, Dukkha, Anatta – According to Some Key Suttā.”
